ĐÀO PHẠM THÙY TRANG
Bưu điện trưa mà người đang chờ gửi hàng đông chen chân không lọt. Cái nắng từ bậc thềm hắt vào khu vực sảnh qua làn cửa kính càng khiến cái nóng như nóng hơn bởi không có cánh quạt nào ở đây.
Người gửi hàng đi nước ngoài, sau khai báo thì được thông báo là món này được gửi, món kia không, món nọ để hỏi lại cấp trên. Rồi một loạt những món hàng trong thùng giấy được bóc ra cho nhân viên bưu điện kiểm tra từng món, từng nhãn mác. Rồi lại yêu cầu bọc bị thêm, đổi trọng lượng thùng để đựng.
Một con cá heo được đan móc bằng len với màu cam vàng rực mà cụ bà nọ gửi đi Mỹ để mừng sinh nhật cháu ngoại có giá cước là một triệu tám.
Cô nhân viên bưu chính trẻ ơi là trẻ rất thật thà cười hihi, nói rằng: “Giá cước này, thà con mua ở bên bển còn hay hơn. Đan móc chi cho cực, còn mất công tốn bạc triệu gửi đi hả bà?”.
Bà cụ - chủ nhân con cá hình như buồn lòng, bà đáp khẽ: “Kỉ niệm bà tặng cháu ngoại thôi cháu ơi. Tiền của nào mua được”. Cô nhân viên nhẹ nhàng: “Dạ dạ vậy bà cho con nhận một triệu tám tiền cước ạ”.
Tôi loay hoay với bao thuốc nam gửi đi liên tỉnh cho đứa con nuôi bị chứng viêm gan C. Cái bao to quá mà gửi dạng bưu phẩm chẳng mấy chục ngàn tiền cước nên xem bộ vừa cân kéo, vừa đóng gói khiến những gương mặt nhân viên không mấy vui.
Họ yêu cầu phải kê khai thuốc nam là thuốc gì, chữa bệnh gì, kẻo bên kia uống rồi “có gì” thì mất công bưu điện chịu trách nhiệm. Tôi buồn cười quá, giá tôi gửi chuyển phát nhanh cục hàng mười bảy ki lô gam này liệu họ có thời gian mà bắt bẻ nọ kia không. Nhưng không sao, có toa của lương y phòng thuốc từ thiện đóng mộc ký tên đàng hoàng đây.
Xong vụ việc của mình tôi cũng mệt rồi nhưng nhìn sang bên bàn, dáng vóc bé nhỏ với tấm lưng còm xuống của một bà cụ già đang cố gắng xếp gọn những món đồ vào thùng khiến tôi không thể nào ngồi im được. Tôi nhìn kỹ bà, tuổi chắc tầm bảy mươi, bà luôn tay vuốt đi vuốt lại những thứ quà bánh trên bàn cho nó phẳng phiu hơn để dễ đóng vào thùng. Nói rằng bà nâng niu cũng đúng vì nó không những là mồ hôi nước mắt, vì trông bà nghèo quá, mà vật gửi đi lại khá nhiều.
Nhân viên bưu chính đưa ra chiếc thùng hình như bé quá, không chứa hết các vật dụng cần gửi, nên bà cụ phải làm đủ mọi cách cho quà cáp nén lại. Những “trà lài, trà dứa”, những “bánh tráng muối me”, mấy hộp kẹo cao su, chục gói mì khoai tây, chục gói cháo yến, mấy gói thuốc lá, chai dầu gội, bịch bột giặt…
Đôi tay già nua của bà run run khi vuốt đi vuốt lại, rồi lại xếp mớ quà cáp ấy vào thùng, đậy nắp chưa được lại giở ra vuốt nữa.
- Bà ơi, gửi cho cháu nội hay cháu ngoại mà nhiều quà dữ vậy ạ?
- Ờ không… không phải cháu, mà là con trai, nó… ở trỏng…
Lời người mẹ ngập ngừng, hai bàn tay đang gói ghém cũng đưa lên lau mắt khiến tôi hiểu ra sự việc.
- Đừng buồn nữa bà ơi, em nó sắp về rồi mà!
- Về sao được, án mười tám năm, mới ở có bốn năm thôi cô ơi…
Thời gian như đông cứng trong vòng mấy giây mà không ai nói với ai lời nào được nữa.
Bây giờ các thứ quà cáp đã chịu nằm yên vào chiếc thùng nên người mẹ ấy ngồi xuống ghế chờ gọi tên làm thủ tục.
Bà ngồi đối diện tôi, sau lớp khẩu trang vải đã ngả màu, mái tóc chỉ còn sương nắng, bà cho biết mình đã 75 tuổi, làm nghề bán vé số. Bà có ba đứa con (hai trai, một gái). Hai đứa giữa có gia đình rồi, đứa trai lớn thì… đang thụ án.
- Em ấy đã có vợ con gì chưa ạ? Án gì đó ạ?
- Hai tám tuổi, vợ con có cũng như không, vậy mà phải ở trỏng mười tám năm vì… giết người!
*
Được là trai lớn trong ba người con của bà Năm Còng. Từ năm mười lăm tuổi, học xong lớp 9 Được đã theo hàng xóm đi làm cu li thợ hồ. Mười tám tuổi không đi nghĩa vụ được như bao thanh niên trong xóm, vì trong lần đi làm hồ nọ, Được đã bị sập tường gãy xương vai. Hai mươi tuổi Được đã thành thợ nhì, hai năm sau thì lên thợ nhất. Hai em đã lấy vợ, lấy chồng ở xa, chỉ có Được ở nhà với mẹ vì chưa vợ.
Lương thợ nhất khá cao nhưng Được chỉ “góp” bao gạo, bịch muối hàng tháng với mẹ. Cơm nhà hàng ngày Được vẫn ăn, bà Năm Còng đều không ý kiến. Vì nuôi con hai mươi năm còn được, giờ đáng gì số tiền công nhật của nó mà đòi hỏi. Bà Năm ngoài lúc đi bán vé số thì phụ chạy bàn quán bánh xèo gần nhà cũng có thu nhập đủ sống.
Quán bánh xèo nổi lửa từ hai giờ chiều, bán tận chín giờ tối không lúc nào ngớt khách, nên tiền công của nhân viên cũng khá. Vì vậy nên bà Năm không bao giờ đòi hỏi số tiền con trai lớn phải đóng góp hàng tháng là bao nhiêu, vì bà biết thanh niên có nhiều nhu cầu cá nhân phải xài tiền. Kệ, thời buổi này mà nó ngoan ngoãn chịu làm ăn không cặp bè cặp bạn gây mất trật tự xã hội là tốt lắm rồi.
Vậy mà Được không có dư mới nghiệt! Đến khi Được đòi cưới vợ ở tuổi 26 thì bà Năm Còng mới té ngửa là nó… không dư đồng nào. Đã vậy, con bà còn đòi sửa nhà khang trang, xây một cái phòng riêng đẹp như cung điện, “nộp tài” trăm triệu. Riêng mẹ phải bỏ nghề bán vé số đi “cho đỡ mang tiếng” thì cô gái kia mới ưng nó làm chồng.
Bà Năm khóc: “Tiền đâu sửa nhà? Ba con mất sớm, mẹ cả tuổi trẻ phải đi làm cu li thợ hồ đến còng lưng để nuôi các con khôn lớn. Giờ tiền đâu xây phòng? Mày muốn vậy thì tự lo chứ con? Đất mẹ có sẵn, nhà cũng có đây, vợ mày chê thì mày phải sửa chứ kêu gì mẹ? Bao năm qua mày làm có đưa tiền mẹ đâu? Đòi “nộp tài” trăm triệu, là cưới công chúa hay tiểu thơ vậy con?”.
- Vậy giờ Mỹ đã có bầu thì làm sao hả má?
- Thì… thú phạt chứ sao hả con?
- Đời con gái người ta có một lần xe hoa áo cưới, mà má kêu thú phạt là sao?
- Chứ giờ mày muốn sao?
- Sửa nhà, cưới vợ, phải cưới em Mỹ thật rình rang con mới chịu! Nếu không, con đi bụi cho má coi!
Nói là đi, bà Năm làm sao cản. “Con không cha như nhà không nóc” là vậy. Ông ấy đã mất, khi họ vừa kịp có ba đứa con với nhau. Cái ngày chồng bà Năm ra đi, cu Được mới năm tuổi chứ lớn lao gì. Cái ăn, cái mặc đã oằn lưng người mẹ nghèo. Thì sự dạy dỗ con cái chỉ có giới hạn chứ làm sao xuyên suốt được? Tụi nó không đói, không thất học, không lưu linh lưu địa, không du côn du đãng… thì đã là sự cố gắng hết sức của người mẹ đơn thân rồi. Còn trí tuệ và hiểu biết để sống sao cho phải đạo làm con, phải cách làm người thì có khi phải là đời dạy cho chúng chứ mẹ chỉ dạy ở giới hạn nào đó thôi.
Hai người em của Được sau mấy lần tìm anh cũng không thèm đi tìm nữa. Họ có tổ ấm riêng, còn phải lo cơm áo cho gia đình mình. Làm sao để dễ tìm khi người cố trốn? Bà Năm Còng cũng không còn cách để tìm con, lòng nhủ thầm nó đã hai mấy tuổi, chắc không đi lạc đâu mà sợ. Nhà đây, rồi nó sẽ trở về.
Được về thật, gần một năm sau ngày ra đi, nó đã trở về trong một đêm khuya mà mẹ già không ngủ được.
Lòng mẹ nhớ thương và lo lắng cho con cứ âm ỉ bao ngày nhưng sao hôm ấy bà Năm nghe trong người mệt quá, lòng chộn rộn, mi mắt giật liên hồi. Bà không ngủ được dù kim đồng hồ đã nhích sang ngày mới. Bà vẫn nằm trên võng, bật điện thoại nghe kênh phật pháp giảng mấy bài kinh sám hối:
… Người làm phước có khi mắc nạn
Kẻ lăng loàn đặng hạng giàu sang
Ấy là nợ trước còn mang…
Bà nén tiếng thở dài, không biết nợ trước mình còn mang không mà sao từ ngày chồng tạ thế đến nay đã gần ba mươi năm. Một thân một mình nuôi bầy con khôn lớn với bao vất vả không kể xiết. Vậy mà ở tuổi gần bảy mươi, vẫn chưa thấy yên lòng được...
Hơn một năm qua, thằng con bà đi đâu? Làm gì để sống? Nhà cửa đây sao không về? Tuy nhà không giàu sang nhưng cũng có chỗ che mưa tránh nắng, còn hơn là thuê nhà trọ. Bốn tuần chớp mắt là thành tháng phải trả tiền nhà, rồi tiền điện, tiền nước, tiền xà bông bột giặt, tiền gạo, tiền gas… nó đủ sống không?
- Má ơi! Mở cửa cho con đi má…
Tiếng gọi khẩn cấp và hình như run sợ vì nó khe khẽ và thâm u lạ lẫm quá. Bà Năm đang nằm võng trong cơn vật vờ của ngủ thức và suy nghĩ cũng phải vụt dậy đi về hướng cửa.
Một bóng người quen thuộc lách vào nhà, chiếc áo sơ mi màu xám còn thoáng mùi dầu mỡ chiên xào, nhưng trên người của thanh niên ấy hình như dính máu. Mùi tanh tanh xộc vào khướu giác mẹ già.
Bà Năm Còng lần tường tìm công tắc đèn bật thêm cho nhà sáng.
- Má… đừng bật đèn… con giết người rồi má ơi!
- Giết… người…. mà giết ai? Tại sao giết...?
- Em Mỹ… Mỹ…
- Mỹ… nó là vợ mày mà? Mày nói gì vậy Được?
Bóng thanh niên ngồi thụp xuống ôm đầu. Được cho biết, gần một năm qua mình và Mỹ thuê nhà trọ sống chung, ngày anh đi làm, tối đi chạy xe ôm kiếm thêm thu nhập. Mỹ bầu bì rồi sinh con, chẳng may đứa trẻ bị tim bẩm sinh nên cứ bệnh vặt mãi. Bao nhiêu tiền Được làm ra đều không đủ chi dùng. Được muốn đem Mỹ về nhà cho đỡ tiền nhà trọ và dù sau cũng có bà nội chăm sóc em bé phụ. Nhưng Mỹ không chịu, nói sống nhà trọ thoải mái hơn.
Dạo gần đây, chạy xe ôm đêm ế quá, Được xoay qua phụ quán ăn. Rất nhiều đêm phải mười hai giờ khuya mới về nhà. Sáng sáu giờ đã phải dậy đi tới công trường. Sức khỏe bị bào mòn, tình yêu đã bị cơm áo, gạo tiền, thuốc thang con trẻ làm cho hao hụt. Ước vọng “chỉ cần có nhau là đủ” của tuổi trẻ không còn là lý tưởng nữa.
Đêm nay Được thấy mệt quá, nên xin chủ quán về sớm một chút. Trên tay còn hộp thức ăn với món hải sản yêu thích của Mỹ. Vậy mà… căn phòng trọ quen thuộc ấy, trước cửa là đôi giày của ai đó. Cửa phòng khóa trong, gọi điện thoại Mỹ không nghe, đến khi cửa mở thì một bóng người chạy vụt ra còn chưa kịp mặc áo.
Vương vãi trên tấm nệm quen thuộc của vợ chồng trẻ thì đêm ấy không phải là quần áo của Được. Người đàn ông trẻ đã hiểu ra tất cả. Được hỏi vợ tại sao lại phản bội chồng? Mỹ không chút hối lỗi mà còn cãi già rằng “Tại anh đi suốt ngày đêm, em ở nhà cô đơn quá nên phải có bạn tâm sự chứ”.
Được không kìm nén được nữa. Cây xà beng 60 xen-ti-mét vốn là đồ nghề của thợ hồ, hôm nay đã thành hung khí. Máu Mỹ chảy khá nhiều, dính cả áo của người gây án. Được hoảng hốt lên xe rồ máy, hướng vô thức về lại nhà mình sau bốn mươi phút chạy xe.
- Con mày đâu?
- Con… con không biết…
- Rồi… con Mỹ… nó sao…?
- Con… cũng không biết… Giờ làm sao hả má ơi?
- Đi, lên công an xã đầu thú chứ sao nữa?
- Nhưng con sợ quá…
*
Sự vụ rần rần xóm nhỏ. Người nói ra, kẻ nói vào. Thương xót có, chì chiết có, thông cảm có, oán thán có. Có kẻ ác mồm hơn còn bảo “Con không cha như nhà không nóc” là vậy thôi!; “Con hư tại mẹ” thì vậy thôi!
Lẽ đời nhiều nỗi truân chuyên, nên người ta không là mình thì không thể thấu hiểu cho mình là như vậy. Nhưng bà Năm không còn thời gian để nghe những lời muối xát lòng đó nữa. Bà đã dạy con hết tình người mẹ. Đã nuôi con đến trưởng thành thì việc sau đó đã ngoài tầm tay bà quản. Bây giờ bà chấp nhận những lời mắng nhiếc.
Nhưng có nói gì đi nữa thì thằng Được con bà Năm Còng cũng cố ý gây thương tích cho vợ là có thật. Bây giờ bà Năm chỉ biết cầu trời khấn Phật cho con dâu qua khỏi. Rồi nó có muốn cất cái phòng như cung điện, sửa cái nhà cho khang trang, nộp tài tiền cưới trăm triệu thì bà cũng… đi ăn mày mà thực hiện.
Nhưng xui cho Được, Mỹ đã chết vì gãy đốt sống cổ. Người thân của Mỹ làm to chuyện, nào là không cưới xin mà vẫn có vợ, vậy mà còn không biết lo cho vợ được cơm no áo ấm. Để người đàn ông khác phải lo giùm, đáng ra phải biết nhục mà rút lui chứ sao lại đi cố ý giết người để thỏa mãn thù hận?
Bà Năm Còng chạy đôn chạy đáo tìm luật sư để bảo vệ cho con. Những đồng tiền gom góp bao lâu nay từ những tờ vé số, những buổi rạc chân vì chạy bàn phụ quán bánh xèo được người mẹ ki cóp, giữ gìn. Tưởng để cho dâu, cho cháu mà đổi lấy nụ cười. Ai dè phải run run trao nó về hướng luật sư.
Cũng may mắn là luật sư chỉ nhận số tiền thuê “tượng trưng” là năm triệu. Vì thương bà Năm già cả nghèo nàn. Chứ thật ra vụ án này, bao nhiêu loại phí và cả tiền thuê từ tòa huyện đến tòa tỉnh phải tính bằng dãy số “chín chữ số” chứ không ít.
Cha mẹ của “bị hại” làm dữ, họ yêu cầu “mạng đền mạng”, án của Được phải “có chữ” chứ không phải “có số” thì họ mới bằng lòng. “Chứ con gái chúng tôi không thể chết oan như vậy”.
May luật sư của bà Năm rất giỏi và có tâm. Ông phân tích thiệt hơn, đúng luật, đúng người, đúng tội. Bởi thật ra vụ án xảy ra, lỗi một phần cũng do “bị hại”, tuy Mỹ và Được chưa cưới, nhưng họ đã đăng ký kết hôn. Nghĩa là vợ chồng hợp pháp.
Thế nhưng trong khi chồng phải lao động cật lực để nuôi sống gia đình thì “bị hại” ở nhà đã có quan hệ ngoài chồng ngoài vợ với người khác. Đó là vi phạm luật hôn nhân gia đình, Được vì ghen, tất nhiên không còn lý trí và sáng suốt để nhịn được. Sự việc xảy ra đau lòng nhưng cũng không phải là vô lý.
Tòa chấp nhận lời biện giải của luật sư bên “bị cáo”. Án tuyên Được 18 năm tù.
Người mẹ già gục xuống “Trời ơi… tui đặt nó tên Được, mà sao nó mất cả cuộc đời vì một người đàn bà như vậy trời ơi…”.
*
Bốn năm nay, lúc dịch bệnh chưa hoành hành, đôi chân người mẹ ấy còn khỏe hơn thì ngày bà bán hơn trăm tờ vé số. Chiều phụ quán bánh xèo được một trăm ngàn nữa. Tháng có sáu triệu, chia ra làm hai phần. Một nửa mua thức ăn, mua thuốc uống, phần còn lại để dành đi thăm con. Từ nhà tới trại giam là 180 ki lô mét, qua ba lượt xe khách và xe ôm hết bốn trăm ngàn. Rồi quà cáp, tiền xài vặt gửi cho con cũng bạc triệu mỗi lần thăm. Lâu lâu hai em của Được thay phiên nhau chở mẹ đi thăm anh, cũng cho Được vài gói thuốc, bịch trà. Nhưng biết bao nhiêu là đủ, khi mà họ cũng có gia đình riêng.
Bà Năm “sắp lịch” hai tháng đi thăm con một lần. Ngày đi thăm con trai, bà sẽ nghỉ bán vé số, cũng không phụ quán bánh xèo, vì đi về mệt lắm. Đường xa dằn xóc, nắng nóng, sức khỏe người già không cho phép nữa.
Dạo này sức khỏe kém quá nên từ tết đến giờ bà Năm chỉ đi thăm con trai có hai lần. Lúc này thì mưa gió bán buôn ế ẩm nên bà chỉ gửi quà thôi, không đi thăm con được, vì tiền xe ôm cũng ngốn một phần đáng kể rồi.
Nhân viên bưu chính gọi tên người gửi thùng quà vào trại giam X, nói rằng: “Thời hạn tối đa hàng tới là như vậy, nhưng để được đến tay người nhận thì còn tùy thuộc vào bên quản giáo phát nhanh hay chậm nhé. Bà đừng sốt ruột rồi chạy hỏi tới hỏi lui tội nghiệp”.
Người mẹ già gật đầu nhanh như đã hiểu. Mái tóc bạc như cước rối bù trên gương mặt, xõa dài xuống bờ vai gầy mỏng mà chiếc cổ áo bà ba còn có mấy miếng vá sờn sờn.
Tiền cước bưu điện được thông báo khiến bà ngẩn ngơ một lúc. Có lẽ cước lên quá cao so với lần gửi trước. Rồi bà mở kim gút, lần lần túi áo lấy ra một xấp tiền nhiều mệnh giá một ngàn, hai ngàn, năm ngàn, mười ngàn… để trả tiền cước bưu phẩm.
Tôi ghi nhanh dãy số điện thoại mình vào mẩu giấy có sẵn trên bàn, dặn rằng: “Khi nào muốn đi thăm con trai, thì bà Năm hãy gọi con cho quá giang. Nhà con có xe khách đi tuyến đường ngang trại giam của Được. Coi như sẵn tiện cho bà Năm đỡ tốn tiền xe vậy”.
Đôi môi già nua run run tiếng cảm ơn rồi bà vén vạt áo bà ba màu trắng ngà ấy lên lau nước mắt vì cảm động. Tôi phát hiện, chiếc áo túi bà mặc bên trong còn có mấy miếng vá sẫm màu.
Tôi mời bà dùng ly nước mía trước cổng bưu điện để giải khát buổi trưa nắng. Bà trù trừ đồng ý bằng câu “Nhưng cho qua đem về nhen cô. Tới giờ phụ quán bánh xèo rồi. Ngồi lại trễ lắm”.
Nước mía đã xay xong. Tôi cuộn nhỏ tờ tiền màu xanh lá thả vào chiếc túi mà bà Năm đeo trên vai và bảo “Xem như con phụ bà tiền cước gửi quà hôm nay cho Được nhé!”. Bà cúi đầu, chắp tay cảm ơn lia lịa.
Nước mắt tôi ở đâu bỗng trào ra nhòa nhoẹt cả người đối diện bởi chỉ vì một chút ân tình mà người mẹ già phải cúi đầu cảm ơn người trẻ tuổi.
Chiếc xe đạp và mê nón lá của bà Năm đã khuất trong dòng người hối hả. Tôi cũng đề máy xe mình để về với bao công việc đang chờ. Nhưng lòng cứ nghĩ về người mẹ tuổi bảy mươi hàng ngày bán từng tờ vé số để dành dụm thăm đứa con “ở trỏng”. Nó còn thụ án mười mấy năm nữa, lòng mẹ bao la nhưng tuổi trời có hạn. Chỉ cầu mong bà Năm chân cứng đá mềm để còn vượt qua những đau nhọc của đời người.
Đ.P.T.T