LÊ NGỌC SƠN
Người đàn bà cao số
Truyện ngắn dự thi
Phố huyện nghèo nằm dọc theo quốc lộ 1A. Những năm đầu thập niên chín mươi, phố chỉ lác đác vài ba chục mái nhà, phần lớn lợp ngói đỏ đã bạc màu theo nắng gió thời gian. Vậy mà, hễ ai từ quê ra phố, thể nào cũng phải ghé ăn một bát phở ở quán ngon nhất phố huyện, phở Sâm.
Nói là ngon nhất, thật ra cũng chẳng sai, vì đó là quán phở duy nhất trong cái thị trấn nhỏ này. Nhưng bát phở Sâm đúng là ngon thật. Bánh phở mềm, mịn, thả mình trong thứ nước dùng trong vắt, ngọt thanh được ninh từ xương bò suốt nhiều giờ. Trên mặt bát, hành hoa, mùi ngò và chút tiêu bắc được rắc khéo, nghi ngút khói, thơm nức mũi.
Ngày đó, đói kém, đến bữa cơm còn chưa đủ no. Thế nên, được theo bố mẹ lên phố, được ngồi bên quán nhỏ mà ăn một bát phở nóng hổi là một niềm sung sướng lớn lao. Bát phở ấy thường được vớt hết cái trước tiên, rồi xì xụp từng thìa nước dùng, có khi bưng bát bằng hai tay, đưa lên miệng húp đến giọt cuối cùng mà vẫn còn thòm thèm, vẫn ước ao giá mà được ăn thêm bát nữa.
Phở Sâm ngon, bởi có bàn tay một người đầu bếp tài hoa. Sau này, ông không còn nấu ở quán ấy nữa, chuyển qua vài nơi khác trong phố. Và lạ thay, hễ ở đâu có ông, ở đó khách vẫn nườm nượp kéo đến.
Phở Sâm, cái tên ấy được gọi theo tên ông Sâm, chủ quán kiêm chủ nhà. Vợ ông là bà Đào. Từ quán phở lúc nào cũng đông nườm nượp, nhà ông Sâm từng bước phất lên, trở thành gia đình giàu có nhất phố huyện.
Sự giàu có ấy không cần khoe mẽ bằng lời, mà hiện rõ mồn một, khiến ai đi ngang qua cũng phải trầm trồ xuýt xoa. Bằng chứng sống động nhất chính là ngôi nhà hai tầng đầu tiên của phố, nhà ông Sâm. Khi ấy, nhà mái bằng một tầng đã là hiếm lắm rồi, nói gì đến nhà hai tầng. Cả dãy mặt phố toàn những căn nhà ngói cũ kỹ, đi sâu vào trong ngõ xóm thì vẫn còn không ít nhà tranh vách đất. Thỉnh thoảng vẫn có vụ cháy nhà tranh, mà cứ cháy là rực đỏ cả một vùng, là í ới gọi nhau múc nước, là tiếng khóc than dậy cả xóm.
Thế nên, căn nhà hai tầng kiên cố của ông Sâm nổi bật nhất phố. Nhà đổ bê tông, dầm ngang xà dọc chắc nịch. Bên trong có cầu thang gỗ lim bóng màu vecni, sàn lát gạch hoa mới toanh. Mặt tiền được ốp đá mài màu ghi nhẵn thín, bóng lộn. Sân trước láng xi măng phẳng mịn, kéo dài ra tận phần đất lưu không, khác biệt hoàn toàn với những sân đất bụi bặm của các ngôi nhà khác trong phố.
Ông Sâm và bà Đào có với nhau bốn mặt con. Cô con gái đầu tên Hồng, sau là ba cậu con trai: Liễu, Đông và Nam. Những bữa cơm gia đình, khi các con quây quần bên mâm, khoanh tay lễ phép mời bố mẹ, bà Đào nhìn từng đứa ăn ngon lành, trong lòng rưng rưng một niềm vui khó tả. Bà gắp cho thằng Liễu miếng thịt rim thơm lừng, rồi gắp thêm cho thằng Nam miếng trứng rán vàng ruộm, món khoái khẩu của nó. Ánh mắt bà dịu dàng, cái nét hiền thảo của người phụ nữ vì chồng, vì con. Ông Sâm lúc ấy đang nhấp chén rượu, cũng nhẹ nhàng giục vợ: “Mẹ nó ăn đi chứ!”.
Cơ ngơi đã vững vàng, con cái đề huề, vợ chồng thuận hòa, ai nhìn vào cũng phải thầm nghĩ: Gia đình ấy chắc hẳn được hưởng phúc phần lớn do tổ tiên để lại.
Thế rồi, một buổi chiều u ám, từ tầng hai căn nhà nổi bật nhất phố huyện, hàng xóm bất ngờ nghe vang lên một tiếng súng chát chúa. Đoàng! Tiếng nổ khiến cả khu phố như nín thở. Người người đổ dồn về ngôi nhà hai tầng, những ánh mắt hoang mang, những câu hỏi chưa kịp thành lời. Tiếng xì xào bàn tán, tiếng la thất thanh, rồi tiếng khóc òa lên xé toạc chiều muộn. Trên sàn nhà, giữa một vũng máu đỏ quạch, ông Sâm nằm bất động. Một phát súng xuyên qua thái dương. Ông Sâm vừa tự sát bằng khẩu súng lục giấu kín từ bao giờ.
Không ai tin nổi. Một người đàn ông được xem là thành đạt nhất phố huyện, giàu có, có vợ hiền con ngoan, bỗng dưng kết thúc đời mình trong cảnh bi thảm đến vậy. Không ai tin, nhưng chỉ có bà Đào, người vợ bao năm sớm hôm tảo tần bên ông, là thấu hiểu. Giây phút ôm lấy thi thể chồng lạnh ngắt, bà chỉ còn biết gào lên với trời, với đất. Chồng bà đã chọn cái chết, một cái chết câm lặng và dữ dội, để đổi lấy sự sống cho vợ con.
Có tiền ít thì tiêu ít, có tiền nhiều thì tiêu nhiều. Đời là vậy. Khi giàu lên, ông Sâm tham gia vào dây hụi lớn, nghĩ rằng có thể xoay vòng đồng tiền mà sinh lợi. Nhưng rồi hụi vỡ. Ông ngập trong nợ. Một con số mà dù có gom góp cả đời cũng không thể trả nổi. Danh dự, tự trọng, áp lực chồng chất như dây chão siết cổ. Ông chọn cách duy nhất còn lại, cái chết. Cái chết ấy, ít ra, giữ lại được cho vợ con ông một mái nhà, giữ lại chút tiếng thơm cuối cùng trong con mắt làng xóm, và cắt đứt mọi con đường đòi nợ xuống tận địa phủ.
Chỉ sau một tiếng súng, cuộc đời bà Đào như rơi tõm xuống một vực thẳm tối tăm, không đáy. Có lúc, bà đã nghĩ đến chuyện buông xuôi tất cả, bỏ lại hết để theo chồng sang thế giới bên kia. Khẩu súng lục còn nằm trong tay ông Sâm, ngay bên cạnh. Cái chết nằm đó, lặng lẽ mời gọi… Nhưng rồi, trong ánh mắt nhòa lệ, bà thấy những đứa con thơ dại của mình, đứa ôm chân cha, đứa khóc nấc gọi “bố ơi!” giữa căn nhà lạnh ngắt. Bà không dám nhặt khẩu súng lên. Không phải vì sợ, mà vì bà còn nợ - nợ bốn sinh linh non nớt đang vật vã trong cơn đau mất cha. Bà phải sống, dù chỉ còn là cái bóng, để nuôi chúng lớn lên.
Ba ngày ba đêm liền, con chó Béc-giê trung thành, được ông Sâm nuôi từ hồi còn nhỏ, nằm phục bên mộ chủ, không ăn, không uống, mặc cho gió thổi lạnh, mặc cho mưa phùn giăng giăng suốt cả ngày. Nó nằm đó, như hóa đá. Sang ngày thứ tư, bà Đào mới gượng dậy, khoác áo len ra nghĩa trang. Bà ôm lấy con chó, nhẹ nhàng bế vào lòng. Nó nhẹ bẫng, gầy rạc đi chỉ sau mấy ngày. Nếu không ra kịp, có lẽ đêm nay, khi đợt gió mùa vừa tràn về, nó sẽ chết cóng ngoài đó. Chiều mưa lất phất. Gió hun hút lạnh. Người đàn bà góa bụa ôm con chó liêu xiêu bước qua những bậc đất trơn trượt, như mang theo cả một đời trĩu nặng, lặng lẽ quay về.
Sau ngày ông Sâm mất, người đầu bếp cũng rời quán, không nấu ở đó nữa. Quán phở từng nổi tiếng một thời bắt đầu vắng khách, rồi lặng lẽ đóng cửa. Bà Đào cải tạo lại ngôi nhà hai tầng thành nhà nghỉ trọ, nhà nghỉ đầu tiên của phố huyện. Nhà nằm ngay mặt đường quốc lộ, khách chủ yếu là cánh lái xe đường dài, người qua kẻ lại. Bà Đào vừa cho thuê phòng, vừa kiêm luôn việc nấu ăn. Cũng nhờ thế mà cuộc sống năm mẹ con tạm gọi là xoay xở được. Cái Hồng, con gái lớn của bà, biết đỡ đần mẹ từ sớm. Nó trông nom mấy đứa em, giục chúng học bài, nấu cơm cho mẹ. Nhờ có nó, bà Đào cũng bớt phần chông chênh.
Hồng học hết lớp mười hai thì theo học nghề cắt tóc, trang điểm. Sau đó, nó mở một tiệm nhỏ gần nhà. Được vài năm thì Hồng lấy chồng, một người hàng xóm bên cạnh, tính tình hiền lành. Nhưng dường như số phận không buông tha cho gia đình bà Đào, cứ dập dồn những khúc quanh nghiệt ngã.
Một trưa hè oi ả, khi mọi người còn đang thiu thiu ngủ, thì từ đâu một con chó vện lưỡi lè lè, nước dãi chảy dòng, mắt đỏ sọc lao thẳng vào nhà. Nó cắn phập vào bắp chân cái Hồng, lúc ấy đang nằm trên ghế, chân chạm sát mặt đất. Hồng hét lên, rụt chân lại, máu bắn thành tia từ vết cắn sâu hoắm. Con chó điên chạy loạn khắp quán, rồi lao xuống nhà dưới, rúc vào góc bếp. Nó giãy đành đạch, sùi bọt trắng, rồi nằm chết trong tư thế vặn vẹo, cái lưỡi dài đỏ quạch thè ra một bên mõm. Con chó dại.
Hồng được đưa đi tiêm phòng ngay. Thế nhưng, không hiểu vì sao, hơn hai tuần sau, bệnh vẫn phát. Chỉ ít ngày sau, Hồng không qua khỏi. Bà Đào chưa nguôi nỗi đau mất chồng thì lại phải đội thêm vành khăn trắng tiễn con gái. Tang ông Sâm còn chưa phai, tang Hồng đã ập đến. Lá vàng chưa kịp rụng, lá xanh đã lìa cành. Bà khóc đến cạn nước mắt, lòng đau như có ai xé thành từng mảnh.
Người đời ác miệng. Có kẻ xì xào bảo: “Bà Đào cao số, chồng chết, con chết, chẳng biết sau nữa sẽ đến ai”. Cao số hay không, chẳng ai nói được. Nhưng quả có một điều: vận hạn của gia đình ấy vẫn chưa dừng lại…
Hai năm sau, một buổi trưa oi nồng, thằng con trai út của bà Đào, khi ấy mới học lớp bảy, theo người ta ra sông đào cát. Chẳng ai ngờ, bờ cát nơi ấy đã bị khoét hàm ếch từ những chuyến xúc trước, trơ trọi như chiếc miệng tử thần đang há ra chực chờ. Chỉ một bước sẩy chân, thằng bé rơi xuống sông, bị cuốn phăng đi trong dòng nước đục ngầu. Nó ra đi mãi mãi, không kịp kêu lấy một tiếng gọi mẹ.
Tin dữ truyền về như nhát dao bổ xuống ngực người mẹ. Cái số “cao” người ta hay nói đến dường như lại vận lên nhà bà Đào, thêm một lần nữa, oan nghiệt đến tận cùng.
Chưa đầy năm mươi tuổi, bà đã khóc chồng, rồi khóc đến hai đứa con. Đời người, ai chịu nổi ngần ấy tang tóc? Khóc mãi, đến một lúc bà không còn nước mắt để khóc nữa. Bà lo tang lễ cho con xong, người hốc hác như cọng rơm khô, gió thổi cũng chỉ chực đổ ngã. Bà thương thằng út biết bao, đứa nhỏ ngoan ngoãn, hay giúp mẹ rửa bát, dọn phòng, chẳng bao giờ làm trái lời. Nó có tội tình gì mà ông trời nỡ bắt nó đi sớm như vậy? Bà ngồi một mình bên thềm cửa, tựa lưng vào cột gỗ. Đôi mắt bà trũng sâu, vô hồn, nhìn mãi vào một khoảng xa xăm buồn thảm. Con chó Béc-giê lặng lẽ nằm phủ phục dưới chân bà. Nó không tru lên, không động đậy, chỉ nằm yên như hiểu được rằng, chủ nó giờ đã chẳng còn đủ sức để chịu thêm một nỗi mất mát nào nữa.
Sau đận vận hạn dồn dập, có người đến khuyên bà Đào rằng: căn nhà bà phong thủy không tốt, muốn hóa giải kiếp nạn thì phải mời thầy cao tay về làm lễ. Tới nước này rồi, bà Đào dù có tin hay không cũng đành nghe theo. Người sống, kẻ chết trong nhà bà giờ đã chia đôi nửa, âm dương đôi ngả. Căn nhà giờ chỉ còn lại ba mẹ con: bà, thằng Liễu và thằng Đông.
Thầy địa lý được mời về, mặc áo chùng thâm, mặt nghiêm nghị, tay cầm phất trần. Lễ cúng kéo dài suốt một ngày một đêm, giải hạn, tế sao, đuổi tà trấn trạch. Đèn nhang nghi ngút, tiếng mõ tụng đều đều, khói quyện thành từng dải vắt ngang trần nhà. Xong việc, thầy cũng mệt lả, mặt tái nhợt như người mất vía. Bà Đào thì kiệt sức, bưng mâm hầu cúng mà tay run lẩy bẩy, mồ hôi ướt cả lưng áo.
Thầy nói: “Ở nhà bà có một con quỷ lâu năm, sống bám nơi này. Ngày xưa đào móng xây nhà hai tầng, động tới mạch đất của nó, nên nó nổi giận, phá mà bắt chồng, bắt con. Nhưng hôm nay, tôi đã mượn gươm đao thiên giới đuổi nó đi. Lại còn nhờ âm binh đứng canh, không cho nó có đường quay lại. Giờ nhà bà đã yên”. Bà Đào nghe mà bán tín bán nghi. Nhưng biết sao được. Lời thầy nói như chiếc phao cho một người đàn bà đã chìm sâu trong bể khổ. Cái giá cho sự “yên ổn” ấy không hề nhỏ, hơn bạc triệu, một món tiền lớn lắm thời đó, nhưng bà vẫn cắn răng mà lo, vì còn gì quý hơn bình yên?
Có lẽ nhờ ông thầy ấy thực sự cao tay, hoặc có lẽ nhờ trời thương, mà nhà bà Đào yên ổn được tròn năm năm. Không còn tai ương, không còn tiếng khóc vọng trong nhà. Thằng Đông, con trai thứ ba, đã học xong sư phạm, được phân về dạy học ở một xã nghèo dưới quê bà.
Cả vùng đều quý thầy giáo Đông, người hiền lành, tận tụy, dạy giỏi. Bà con làng xóm cũng mừng cho bà Đào: Cuối cùng thì tai ương cũng chịu buông tha. Giờ, bà chỉ mong một điều giản dị: Con cái sống khỏe mạnh, có mái ấm tử tế, sinh cho bà đứa cháu nội đầu tiên để bà còn có tiếng cười trẻ thơ trong nhà mà khuây khỏa tuổi già.
Ấy vậy mà, niềm vui vừa nhen lên chưa được bao lâu thì cái hạn số nhà bà Đào lại tìm tới. Thằng Liễu, con trai thứ hai của bà, đi làm lơ xe đường dài được một thời gian thì đột ngột về nhà. Hỏi ra mới biết, nó bị người ta đuổi. Lý do: nghiện. Nó đã cắt xén tiền vé của khách để hút chích.
Nhà có thằng nghiện, trăm đường khổ. Cai rồi lại tái. Có hôm mới hứa cai dứt điểm, hôm sau đã thấy vật vờ ở đầu phố. Cứ trong nhà có thứ gì hở ra là nó rình, nó lấy. Vàng bạc chẳng còn gì, nồi niêu, thậm chí cả quạt điện, cả dép của khách trọ, miễn bán được là nó cuỗm. Có lần nó lấy trộm tiền mặt của khách ngay trong nhà nghỉ, khiến khách sợ mà chẳng ai còn dám tới trọ nữa.
Thời gian trôi, thân hình nó gầy rộc. Da bủng beo, mắt trũng sâu, dáng đi xiêu vẹo như chiếc bóng. Nó bắt đầu sợ ánh sáng, sợ nước, hay nằm lặng lẽ trong góc tối như một cái xác không hồn. Cơ là khổ, thằng Liễu không chỉ nghiện mà còn bị HIV. Bệnh đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Người nó lở loét, bốc mùi, ai đi qua cũng né tránh. Cả xóm giờ chỉ còn bà Đào dám lại gần, bón cho nó từng thìa cháo, lau từng giọt mồ hôi trên vầng trán nóng sốt, thay từng manh áo thấm máu và mủ. Cuộc đời chưa biết định đọa bà Đào đến bao giờ. Nhưng bà vẫn gắng. Vẫn chăm con từng ngày cuối cùng. Bởi trên đời, thương con đến tận cùng, dù là đứa tội lỗi hay bệnh tật, thì cũng chỉ có người mẹ.
Ngày thằng Liễu lìa đời, trời mưa rét, cũng lạnh và ảm đạm như cái ngày bố nó ra đi năm nào. Ngôi nhà hai tầng xưa từng đông đúc, rộn ràng, giờ chỉ còn lại tiếng trống tang trầm đục, tiếng kèn rền rĩ kéo dài trong gió mưa. Nó đi, cũng coi như hết khổ. Và bà, người mẹ suốt đời vắt kiệt nước mắt, giờ chỉ biết ngồi lặng bên linh cữu con, gầy rộc, cạn lời, cạn sức.
Thêm một bát hương được đặt lên bàn thờ gia tiên. Khói hương quyện mờ. Số bát hương trong nhà giờ đã nhiều hơn số người còn sống. Mà đông đúc gì nữa. Cả căn nhà giờ chỉ còn lại hai mẹ con: bà và thằng Đông. Thế nhưng trời đày vẫn chưa dừng lại ở đó. Có lẽ, cái số “cao” của bà Đào không phải chỉ là lời đồn, mà là một định mệnh treo lơ lửng, bất cứ lúc nào cũng có thể giáng xuống.
Một đêm về gần sáng, khi phố huyện còn chìm trong giấc ngủ, bà Đào đang nằm một mình trong phòng ngủ góc trái căn nhà thì bỗng nhiên tiếng động cơ gầm rú xé toang màn đêm. Một chiếc xe tải chở hàng như mất lái, lao rầm rập từ quốc lộ vào, húc sập cột điện trước nhà, rồi đâm thẳng vào bức tường phòng bà. Bức tường đổ sập trong tích tắc. Căn phòng rung chuyển như động đất. Đầu xe chỉ chịu dừng lại khi bị chặn bởi xà ngang bê tông đỡ trần, và nó chỉ cách giường bà Đào đang nằm đúng một gang tay.
Mọi thứ xảy ra trong chớp mắt. Gạch đá đổ ào xuống. Mùi dầu, khói, tiếng máy nổ, tiếng kim loại rít lên và tiếng kêu thất thanh vang dội giữa đêm tối. Mấy người hàng xóm vùng dậy, đạp cửa xông vào. Họ thấy bà Đào ngồi co rúm giữa đống ngổn ngang, mặt bê bết máu, ánh mắt hoảng loạn như người vừa đi qua cửa âm ti. Bà được đỡ dậy, bế ra khỏi đống đổ nát. Lạ thay, dù bức tường sập ngay đầu giường, xe tải húc thẳng vào, nhưng bà chỉ bị xây xát nhẹ, không gãy xương, không chấn thương nặng nào. Ai nấy đều kinh ngạc. Người thì lắc đầu, người thì lẩm bẩm: “Số bà ấy… đúng là cao thật”. Đến ngủ trong nhà mà xe tải cũng tìm tới tận phòng tông vào.
Sau cái đận tai nạn kỳ lạ, thoát chết trong gang tấc, bà Đào quyết định bán nhà. Giờ, dù không muốn tin, bà cũng buộc phải tin vào lời thầy địa lý năm xưa, rằng có một con quỷ trú ngụ lâu năm trong căn nhà ấy. Biết đâu, chính nó đã tìm đường quay lại để phá nốt phần đời còn lại của bà. Mà nếu không tin chuyện quỷ, thì bà cũng chẳng thể yên lòng mà ngủ trong căn nhà nằm sát mặt đường, nơi xe cộ ngày đêm rầm rập phóng qua. Ai dám chắc, trong dòng xe cộ ấy, sẽ không có một chiếc nào khác bất ngờ lao vào nhà bà thêm một lần nữa?
Căn nhà, dù ở vị trí đẹp, nhưng giờ lại rất khó bán. Người ta đồn đãi nhau: nhà bà Đào có quỷ ám. Ai cũng e dè, chẳng mấy ai muốn bỏ tiền ra mua một nơi từng chứng kiến quá nhiều tang thương, từng bị xe tải đâm sập tường giữa đêm. Thôi thì, bán được hay không cũng mặc. Bà đã quyết rồi. Phải chuyển đi.
Bà chuyển tới sống với người con còn lại là thầy giáo Đông ở quê nhà. Hai mẹ con sống trong căn nhà cũ mà bà ngoại để lại sau khi mất. Thầy giáo Đông đi dạy, còn bà Đào ở nhà, làm bạn với mảnh vườn, con gà, luống khoai. Và vẫn còn con chó Béc-giê già bầu bạn cùng bà qua bao nhiêu tháng năm.
Giờ, bà cũng không biết mình và con chó già, ai rồi sẽ chết trước. Bà chẳng màng gì nữa. Bà không còn gồng lên mà sống. Bà chẳng còn đủ sức để gồng, để cố. Dường như bà đã buông xuôi với cuộc đời. Mà lạ thay, khi bà buông, thì cuộc sống lại buông tha bà. Cái vận hạn kia dường như tan biến đi đâu mất. Hơn một năm sau, thầy giáo Đông dẫn một cô gái về ra mắt mẹ. Rồi bà Đào cuối cùng cũng được bế ẵm đứa cháu nội đầu tiên. Rồi đứa thứ hai, thứ ba lần lượt ra đời.
Nay bà Đào đã già, cũng đã hơn bảy mươi tuổi. Thỉnh thoảng có người từ phố huyện về quê chơi, nhắc lại chuyện xưa, nhưng bà không còn nói gì về căn nhà trên phố nữa. Không phải bà quên. Quên sao được khi căn nhà ấy từng là máu thịt của đời bà, là nơi bà chứng kiến những người thân yêu nhất lần lượt rời khỏi cõi đời. Nhưng đời người thì ngắn, mà tháng ngày bình yên bên con cháu mới là những ngày còn lại.
Trải qua bao thăng trầm và khổ đau, giờ đây bà Đào sống bình thản, tìm niềm vui trong tiếng bi bô, trong nụ cười trong trẻo của lũ cháu thơ. Mỗi sáng, bà ngồi bên hiên, uống chén trà nguội, nhìn nắng xuyên qua tán cau, lòng không còn vướng bận điều chi.
Còn ở phố, mỗi khi có khách lạ đi ngang, không khỏi ngạc nhiên khi thấy một ngôi nhà hai tầng nằm ở vị trí trung tâm lại bị bỏ hoang lạnh lẽo. Phố huyện nghèo năm xưa giờ đã đông đúc, phồn thịnh hơn. Người từ nơi khác đổ về sinh sống ngày càng nhiều, phố xá nhộn nhịp, nhà cửa chen chúc. Nhưng ít ai biết, sau cánh cửa khóa im lìm kia là cả một câu chuyện cuộc đời đầy đau khổ của một người đàn bà cao số.
L.N.S