Tư duy nông nghiệp qua lễ hội truyền thống xứ Thanh - Trần Thị Liên
Thanh Hóa là vùng đất cổ, vùng đất này không chỉ là quê hương của văn hóa Đông Sơn nổi tiếng, có ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á mà còn có hệ thống lễ hội cổ truyền đặc sắc. Lễ hội truyền thống ở xứ Thanh diễn ra trong bốn mùa nhưng tập trung nhất vẫn là mùa xuân. Lễ hội mùa xuân trên đất Thanh đã góp phần tạo nên một nét xuân trong kho tàng văn hóa Việt Nam.
Nằm trong vùng nông nghiệp, lễ hội cổ truyền ở xứ Thanh chủ yếu là lễ hội Cầu mùa. Với ý nghĩa cầu mong thần linh phù hộ độ trì cho dân làng được người an, vật thịnh, mùa màng tươi tốt bội thu. Đây chính là các lễ Kỳ phúc, Kỳ yên thường phổ biến ở hầu hết các làng quê nông nghiệp. Tiêu biểu cho loại lễ hội này là lễ hội trình nghề ở làng Triềng (Yên Ninh, Yên Định), lễ Kỳ phúc ở các làng nông nghiệp miền xuôi và lễ Cầu Ngư ở các làng miền biển như Ngư Lộc (Hậu Lộc), Quảng Nham (Quảng Xương)... Bên cạnh lễ hội Cầu mùa, lễ hội tôn vinh anh hùng dân tộc, tưởng nhớ người có công với dân, với nước cũng khá phổ biến ở Thanh Hóa. Loại lễ hội này có thể liên quan trực tiếp với anh hùng dân tộc như lễ hội đền Bà Triệu, lễ hội Lê Hoàn, lễ hội Lam Kinh, lễ hội đền Lê Lai... cũng có thể là những lễ hội liên quan đến sự kiện, nhân vật lịch sử như lễ hội Xuân Phả, lễ hội làng Bôn...
Cùng với nội dung cầu mùa, tôn vinh anh hùng dân tộc; Lễ hội cổ truyền còn tôn vinh, xưng tụng công đức của những danh nhân văn hóa, các vị tổ sư các ngành nghề - những người đã đóng góp mở mang dân trí, góp phần nâng cao đời sống cộng đồng. Tiêu biểu cho loại lễ hội này là lễ hội Bánh chưng, bánh dày, lễ hội Bà Triều (Tổ sư nghề lưới vó) ở Sầm Sơn.
Với đặc điểm của một vùng nông nghiệp, lưu vực sông Mã là nơi nghề nông chiếm chủ yếu. Người dân quanh năm sống với con trâu, cái cày, nghề thủ công đều là những nghề gắn bó với nông nghiệp.
Điểm nổi bật ở đây là người dân đã sáng tạo ra những trò diễn phản ánh đời sống sản xuất nông nghiệp và phục vụ nhà nông. Những hội trình nghề có trò chơi, trò diễn, trò tứ dân, giới thiệu tất cả các ngành nghề song chủ yếu là đề cao ngành sĩ, ngành nông.
Trò trình nghề có địa phương phát âm chệch đi một chút gọi là trò Triềng. Có nơi gọi là trò Tứ dân, hoặc trò Sĩ, nông công thương để chỉ vào những trò diễn chính - thực ra còn nhiều trò chỉ các nghề nghiệp khác. Trước sân đình, khi cúng thần linh (Thành Hoàng) xong, người ta trình diễn những hoạt cảnh, đưa ra hình ảnh nhiều hạng người, mỗi người một nghề, ra làm trò vui cho thiên hạ cùng xem, việc trình diễn này là bằng động tác, bằng dụng cụ. Người đi cày thì vác cày cuốc, giong trâu bò (có khi là trâu bò thật, có khi người hóa trang thành trâu bò). Người đi câu thì có cần câu, dây câu, giỏ cá. Người làm thợ mộc thì mang đục, chàng; người thợ rèn thì mang lò, bễ (đều là những dụng cụ thật hoặc tô vẽ, hóa trang). Có cả những người đóng thầy thuốc, thầy bói... Đặc biệt là trong trò bao giờ cũng thêm một cô gái nghịch ngợm, gọi là cô gái lẳng lơ, hoặc cô gái bán xoan (xuân) để làm trò cười vui nhộn. Có nơi, trò diễn còn đưa ra những vai như chú Khách ngô nghê cũng gọi là chú Ngô già bán kẹo v.v... Tất cả kéo nhau lượn vòng quanh sân đình, rồi đi diễu hành trên một đoạn đường trong làng xóm. Các trò diễn hoàn toàn là “diễn cương” không có văn bản lời lẽ nào quy định. Trong khi trình diễn đôi khi có sự giao lưu với khán giả. Những người biểu diễn chạy lao vào các hàng quán dọc đường, vào đám đông người xem để vui đùa, gây không khí sôi nổi cho ngày đầu xuân trở nên hào hứng.
Nhiều hội làng cũng được tổ chức những cuộc thi tài như thổi cơm thi, nhằm động viên tài năng tháo vát của người thôn nữ. Có nhiều kiểu thi nấu cơm như vừa nấu vừa chăm cóc, nấu cơm trong phạm vi một vòng tròn, vừa đi vừa nấu v.v... Có những câu ca dao hài hước nói về cuộc thi này:
Một tay đun chín bếp rơm
Tay vo bánh lọc chị nhường chồng cho
Còn có những cuộc thi khác như làm bánh trong, bánh lọc, thi chồng cỗ v.v...
Đặc biệt ở thôn Phú Khê xưa (nay là hai xã Hoằng Phú, Hoằng Quý, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa) còn có tục lệ thi dệt vải trên thuyền. Mỗi chị một khung cửi. Trong khoảng thời gian quy định, trên chiếc thuyền tròng trành đó, ai dệt vải đẹp và xong trước là người thắng cuộc. Thi tài đối với nam giới là thể hiện sự nhanh nhẹn và khỏe mạnh. Cuộc thi chạy (như ngày nay gọi là chạy việt dã) mở đầu cho ngày hội làng Xuân Phả (huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa), lực sĩ phải mang trên lưng một cái bị nặng đựng khoảng một hộc thóc, tay cầm giáo, miệng ngậm gươm và chạy quãng đường quanh làng chừng 5km. Cùng với cuộc thi chạy, người ta còn có các hình thức như thi thả chim, thả diều v.v... Các nhà nghiên cứu đã cho rằng thi chim, thả diều là dấu hiệu của tín ngưỡng cầu mùa, tín ngưỡng thờ thần mặt trời trong các dân tộc chuyên về nông nghiệp.
Ngoài việc tổ chức các lễ Kỳ yên, Kỳ phúc cầu mong cho hòa cốc phong đăng, cho thái bình thịnh trị; Với những hình thức thông thường như tế lễ ở đình, với các nghi thức cúng bái, đọc văn, rước cờ, rước kiệu, các làng còn tổ chức làm lễ Tống trùng: Người dân cho rằng sở dĩ làng có bệnh tật, sâu keo... là vì có con ma trùng ám hại. Phải trừ khử quét sạch bằng cách cho tất cả chúng vào chiếc thuyền giấy, châm lửa đốt và đẩy chúng ra ngoài biển khơi. Còn có các lễ tùy theo hoàn cảnh từng làng, ví dụ như lễ đánh chuột (tức là săn chuột). Cũng tổ chức cúng bái ở đình làng rồi giao cho các giáp, mỗi giáp một đoàn lực sĩ mang dụng cụ đi săn, xông vào các hang ổ của chuột để bắt. Ngày hội đánh chuột thật là rộn ràng sôi nổi, cả làng “trống đánh tan hoang vì ba con chuột”v.v... là như vậy. Bắt được nhiều chuột sẽ có thưởng, thưởng ít thôi! Còn không bắt được con nào hoặc quá ít thì phải uống nước lã! “Giáp một cười khì, giáp nhì phì bụng ra”v.v... cũng là vì thế.
Sinh hoạt nông nghiệp luôn luôn gắn với cuộc sống, các hội bơi thuyền cũng là những trò diễn xướng quen thuộc ở nông thôn. Gần như tất cả các làng quê Việt Nam đều có lễ bơi thuyền. Ngay cả những làng không có sông suối. Nếu có sông hoặc biển gần, người ta tổ chức những cuộc thi bơi. Hội đua thuyền trong Nam gọi là hội Bả Trạo. Còn ở số đông các làng trung du, đồng bằng thì có hình thức chèo chải. Chải là tiếng cổ, chỉ vào cái thuyền. Chèo chải có lẽ là chèo trên cạn, một hình thức cúng tế thần linh. Các bài hát không có nội dung chèo lái gì nhưng vẫn được gọi là chèo, cũng là hát múa.
Cũng để phục vụ cuộc sống nông nghiệp, người dân đã đúc kết kinh nghiệm nước, phân, cần, giống trong đó nước là yếu tố hàng đầu. Trò diễn dân gian ở đây đã đề cao công việc thủy lợi. Những việc thi bơi thuyền, chèo đua đều được tổ chức giống các nơi trong nước nhưng người dân cũng hay gắn những hành động này với nhiều ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn trò Thủy ở vùng Đông Sơn thực chất là ca ngợi việc đưa nước vào đồng ruộng.
Mở cửa cho thủy tôi vào
Dựng trò làm lễ tiêu hao sự tình
Theo nội dung lời ca của trò là diễn tả sự vui mừng của dân làng nhờ có dòng mương đưa nước vào ruộng làm cho ngô lúa xanh tươi, nhưng ở đây còn được xem là tổ chức cuộc thi bơi chèo là để tế Cao Hoàng mà người dân quan niệm Cao Hoàng là Thái Tổ Cao Hoàng đế Lê Lợi có công đánh đuổi giặc Minh.
Có một trò diễn khá đặc sắc ở lưu vực sông Mã, thể hiện toàn bộ một lịch tiết nông nghiệp đó là trò Múa Đèn. Về đạo cụ hóa trang, trò Múa Đèn ở lưu vực sông Mã bắt buộc phải có ngọn đèn đội trên đầu và khăn đỏ chít ngang đầu. Về phần hóa trang, khăn đỏ trên đầu cũng như ngọn đèn tượng trưng cho mặt trời. Ánh sáng mặt trời đối với sự sinh trưởng của muôn loài và vòng quay của mặt trời đối với chu trình sản xuất là điều rất quan trọng.
Tục thờ thần mặt trời là tín ngưỡng phổ biến của cư dân nông nghiệp. Đây cũng là một vấn đề mà chủ văn minh nông nghiệp Đông Sơn đã sớm nhận thức được và thể hiện trên trống đồng Đông Sơn. Trên di vật tiêu biểu của nền văn minh nông nghiệp này, ta thấy hình ảnh trung tâm là mặt trời, các hoạt động của con người và muôn loài (cây cỏ, chim, cá, hươu), đều diễn ra dưới sự tỏa sáng của mặt trời. Đây chính là tín ngưỡng nông nghiệp cổ với tục thờ mặt trời còn lưu lại với trò diễn dân gian ở lưu vực sông Mã.
Lời ca của trò Múa Đèn là một bản nông lịch. Người ta nhắc nhở nhau tháng nào làm gì, cho đến cuối năm thu hoạch và hưởng thụ ra sao? Người nông dân lao động rất chăm chỉ, công việc của họ trong cả năm là:
Tháng giêng, tháng hai: Luống bông, luống đậu; tháng ba, tháng tư: vãi mạ; thời gian chờ mạ tốt: chẻ lạt đan lừ; tháng năm, tháng sáu: nhổ mạ, đi cấy; tháng bảy, tháng tám: kéo sợi, dệt cửi, vá may; tháng chín, tháng mười: (lúa chín) đi gặt; gặt hái xong: đánh lá lật, đánh gà luộc, cúng cơm mới, dâng oản.
Qua một số nội dung phản ánh cuộc sống nông nghiệp của người dân xứ Thanh được trình diễn trong hội làng ta thấy lễ hội chính là hình thức sinh hoạt văn hóa phong phú, có vai trò quan trọng trong cuộc sống người dân. Những dấu ấn của nền văn minh nông nghiệp trong lễ hội truyền thống cho thấy việc sưu tầm nghiên cứu, khôi phục lễ hội cổ truyền đang là vấn đề bức thiết trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao của người lao động.
T.T.L