Về miền Báo Bồng “địa linh nhân kiệt” - Lê Khắc Tuế
Xưa kia cánh chân sào chống thuyền trên dòng sông Mã, thuyền ăn hàng từ chợ tỉnh đưa lên các chợ Cung, chợ Bồng, chợ Giáng (huyện Vĩnh Lộc), chợ Sét (huyện Yên Định), chợ Màu Bãi (huyện Cẩm Thủy)... Khi thuyền vượt qua ngã Ba Bông, nơi sông Mã chia một phân lưu nhỏ là sông Lèn, còn nhánh chính thì rẽ hẳn sang phải tiếp tục chảy xuống biển, trai đò cất tiếng hò: Thuyền đà vượt ngã Ba Bông/ Đến đây là đất Báo Bồng em ơi. Trai đò báo cho khách trong thuyền biết thuyền đã đến miền Báo Bồng.
Báo Bồng là vùng đất cổ, bởi Báo Bồng nằm giữa khu vực sinh sống của con người thuộc văn hóa Đa Bút (làng Đa Bút) di chỉ Rú Hến (làng Kênh Thủy), di chỉ Cồn Cổ Ngựa thuộc xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung.
Đất Báo Bồng ngày xưa chỉ có hai làng là Biện Thượng và Biện Hạ. Ngày nay đất Báo Bồng gồm các làng Bồng Thượng (xã Vĩnh Hùng), làng Bồng Trung, Bồng Hạ, Bồng Thôn, làng Mai và làng Vực (xã Minh Tân) thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Đường đến miền Báo Bồng hôm nay rất thuận tiện bằng cả đường sông và đường bộ. Nếu đi từ thành phố Thanh Hóa, ngược Quốc lộ 45 đến thị trấn Quán Lào 26 cây số, rẽ phải 7 cây số, qua cầu Yên Hoành gặp đất Báo Bồng. Hoặc từ Quốc lộ 1A (ở khu vực Đò Lèn) ngược Quốc lộ 217 (Đò Lèn - Na Mèo) khoảng mươi lăm cây số là đến Báo Bồng. Miền Báo Bồng cách Thành Nhà Hồ chỉ có 14 cây số.
Làng Bồng Thượng và làng Bồng Trung trước kia là một đơn vị hành chính có tên là sách Biện Đà rồi hương Biện Thượng, xã Biện Thượng, rồi làng Biện Thượng. Vào năm 1510, dưới triều Hồng Thuận thứ 2, đời vua Lê Tương Dực, dân cư ở phía Đông làng Biện Thượng đủ thành lập một làng riêng. Các cụ trong làng xin được thành lập làng lấy tên là Đông Biện - làng nằm ở phía Đông làng Biện Thượng. Cuối thế kỷ XIX vì kiêng chữ Biện húy của vua Đồng Khánh và chúa nào đó nên làng Biện Thượng đổi thành là Bồng Thượng, làng Đông Biện đổi là Bồng Trung, làng Biện Hạ đổi là Bồng Hạ.
Làng Biện Thượng còn có tên gọi làng Báo. Hiện chưa tìm thấy sách vở ghi về đơn vị hành chính làng Báo, mà chỉ được lưu truyền, để làng Báo vẫn còn mãi với cư dân làng Bồng Thượng, với người dân trong vùng. Những tên núi, tên sông, chùa chiền vẫn được gọi theo tên làng Báo, đó là núi Hùng Lĩnh gọi là núi Báo, rồi bến đò Báo, chùa Báo, phủ Báo.
Đặc biệt tên làng Báo đã đi vào thành ngữ, thi ca lưu truyền trong nhân dân.
Nói về cảnh đẹp, cảnh nhộn nhịp của Báo Bồng, ca dao có câu:
Nhác trông phong cảnh vui thay
Báo Bồng có phải chốn này hay không
Xưa kia điều kiện sản xuất nông nghiệp ở làng Báo vô cùng khó khăn, vất vả. Rồi khu vực Bồng Báo ba bề đều núi cao bao bọc, do đó thời tiết ở đây cũng khác thường được phản ánh qua tục ngữ, thành ngữ:
- Ăn cơm làng Báo tháo xương hông
- Mưa từ trong Nghệ mưa ra
Mưa khắp thiên hạ mưa qua Báo Bồng
Nói về Báo Bồng quê hương chúa Trịnh và đất Báo Bồng lắm người học hành đỗ đạt cao và làm quan.
- Ngựa xe về Bồng Báo
- Bồng Báo là đất quý hương
Ai về Bồng Báo kéo dây cương ngựa thờ
Trong truyện thơ Quan Âm Thị Kính, nhiều người thuộc, trong đó có câu: “Ngựa bất kham thôi phó về Bồng Báo”. Câu thơ nói đến đất Bồng Báo giỏi giũa dạy người xấu thành người tốt.
Phong cảnh làng Bồng Thượng, Bồng Trung, Bồng Hạ trước làng có dòng sông Mã chảy qua, sau làng là dãy núi Mông Cù có đỉnh cao 374 m. Phía Đông có dãy núi Biện Lĩnh (gọi theo tên làng là núi Bền), phía Tây có dãy núi Hùng Lĩnh (gọi theo làng là núi Báo). Sách Đại Nam nhất thống chí triều Nguyễn viết: “Mạch núi từ phía Đông núi Hùng Lĩnh, theo ven sông Mã bỏ xuống, nổi vọt lên 29 ngọn, đứng xa mà trông hiện ra nhiều hình tàn lộng, như lâu đài, như cờ quạt, như voi ngựa, như gấm hoa, như bình phong, khi râm, khi nắng, buổi sáng, buổi chiều khí sắc luôn thay đổi”. Nhà sử học Phan Huy Chú viết về tỉnh Thanh Hóa: “Vẻ non sông tốt tươi chung đúc nên sinh ra nhiều bậc vương tướng, khí tinh hoa tụ họp lại nảy ra nhiều văn nho... Bởi vì đất thiêng thì người giỏi nên nảy ra những bậc phi thường, vượng khí chung đúc nên xứng đáng đứng đầu cả nước”. Đất Báo Bồng là một miền đất thiêng.
Theo cuốn Gia phả dòng họ Trịnh Kỷ và Trịnh Tư phụ tập biên soạn vào đời Gia Long thứ 2 (1803), được Nghiêm Thành Sâm và Nguyễn Hữu Sáng người xã Quảng Giao, huyện Quảng Xương phụ sao, hiện lưu giữ tại Thư viện tỉnh Thanh Hóa, nhà Hán học Bùi Xuân Vỹ dịch, nội dung cuốn Gia phả có đoạn: “Tổ bốn đời của ông Trịnh Kiểm là ông Trịnh Liễu vốn là người làng Sáo Sơn (nay là Sóc Sơn). Ông Trịnh Liễu lúc bé cha mất sớm, nhà nghèo nhưng vẫn ham học. Lớn lên ông lấy cày cấy, chăn nuôi làm nghề sinh sống. Tính tình nhân hậu lại hay thương người. Ông Trịnh Liễu được một thầy địa lý mách cho ở xứ Chổng Nun (núi Nanh Lợn) có một ngôi đất quý để mã ở đấy bốn đời sau có thể làm nên vương nghiệp. Thầy địa lý còn hướng dẫn ông Liễu đi về phía Đông núi Hùng Lĩnh, đến ngõ Thẳng làng Biện Thượng, thầy địa lý nói: “Chỗ này có thể lập được một dương cơ tốt”. Ông Liễu y theo thầy địa lý đã đi lấy hài cốt của bố mẹ đem chôn cất ở nơi được chỉ dẫn. Sau đó ông Liễu lấy con gái ông Tú họ Hoàng làng Biện Thượng rồi dời nhà về ngõ Thẳng ở. Ông Trịnh Liễu đã sinh ra ông Trịnh Lan. Ông Trịnh Lan đã sinh ra ông Trịnh Lâu. Ông Trịnh Lâu lấy con gái người họ Hoàng ở thôn Hổ, làng Vệ Quốc, huyện Yên Định sinh ra Trịnh Kiểm.
Trịnh Kiểm lớn lên là người rất thông minh, can đảm và mưu lược hơn người. Bấy giờ nhà Mạc cướp ngôi nhà Hậu Lê, Nguyễn Kim là người quê ở Gia Miêu (Nay thuộc xã Hà Long huyện Hà Trung) là An Thành Hầu dưới triều Lê Sơ dựng cờ khởi nghĩa tái lập nhà Lê. Trịnh Kiểm đầu quân làm gia tướng theo Nguyễn Kim. Nguyễn Kim mến tài đem con gái Ngọc Bảo gả cho Trịnh Kiểm.
Năm 1533, Nguyễn Kim sai Trịnh Kiểm đem quân sang Ai Lao đón Lê Duy Ninh về lập làm vua (tức là vua Lê Trang Tông). Vua thấy Trịnh Kiểm tướng mạo khác thường, bèn phong cho là Đại tướng quân, lúc đó Trịnh Kiểm mới 37 tuổi.
Năm 1545 Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết, binh quyền về tay Trịnh Kiểm và Trịnh Kiểm được vua Lê gia phong làm Thái sư Lượng Quốc Công, đứng đầu trăm quan cùng lo việc nước.
Năm Bính Ngọ (1546) Trịnh Kiểm rút quân về Thanh Hóa, lập hành điện ở sách Vạn Lại (nay thuộc xã Xuân Châu, huyện Thọ Xuân) để cho vua ở và dựng hành dinh ở ngõ Thẳng làng Biện Thượng (nay thuộc xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc), tức phủ Trịnh.
Từ khi lên nắm quyền bính, Trịnh Kiểm ra sức củng cố lực lượng, thu hút nhiều nhân tài, nên Nam triều ngày càng mạnh lên, họ Trịnh cai quản vùng phía Nam của Đại Việt (trên danh nghĩa vẫn là dưới quyền vua Lê) và chiến đấu với nhà Mạc ở phía Bắc (Bắc triều). Bấy giờ nhà Lê chiếm được Thanh Hóa và Nghệ An. Nhờ có khẩu hiệu “Phù Lê diệt Mạc”, thanh thế họ Trịnh ngày một lớn.
Năm 1556, vua Lê Trang Tông mất sớm, không có con nối dõi, Trịnh Kiểm bèn đi tìm được người trong tôn thất nhà Lê là Lê Duy Bang lập làm vua, tức là Lê Anh Tông. Từ đó, họ Trịnh nối đời cầm quyền nhưng danh nghĩa vẫn tôn phò làm bề tôi cho nhà Lê, hai họ sống chung trong cơ chế lưỡng đầu suốt trên 240 năm, đất nước không có ngoại bang xâm lược.
Ngay trong khói lửa chiến tranh, Trịnh Kiểm vẫn chăm lo tới công việc triều chính. Ông đã cho đo đạc ruộng đất, lập chế độ thuế khóa, chú ý tới phát triển nông nghiệp. Trên lĩnh vực giáo dục khoa bảng Trịnh Kiểm đã mở khoa thi Sĩ vọng, mở các kỳ thi Hương… để chọn lựa hiền tài cho đất nước. Ông còn chú trọng mở rộng bang giao với Ai Lao để giữ yên mặt phía Tây. Với những cống hiến của Trịnh Kiểm cho vương Triều Lê và trong công cuộc xây dựng đất nước, vua Lê Anh Tông đã gia phong cho ông chức Thượng tướng Thái quốc công và tôn là Thượng Phụ.
Trịnh Kiểm mất ngày 18-02 Âm lịch năm Canh Ngọ (1570) được truy tôn là Minh Khang Thái Vương. Hai mươi lăm năm giữ binh quyền, đức Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm có công lao rất lớn, là giường cột tạo dựng triều Lê Trung Hưng và là người mở đầu sự nghiệp nắm quyền của các chúa Trịnh, đó là: Trịnh Tùng (1570-1623), Trịnh Tráng (1623-1657), Trịnh Tạc (1657-1682), Trịnh Căn (1682-1709), Trịnh Cương (1709-1729), Trịnh Giang (1729-1740), Trịnh Doanh (1740-1767), Trịnh Sâm (1767-1782), Trịnh Cán (1782), Trịnh Khải (1782-1786), Trịnh Bồng (1786-1787).
Như phần trên đã nói, vào năm 1546, Trịnh Kiểm rút quân về Thanh Hóa và lập hành điện ở Vạn Lại để vua Lê ở, đồng thời lập hành dinh ở Biện Thượng gọi là phủ Liêu. Phủ Liêu là cả một hệ thống cung điện, đền đài khá hoàn chỉnh làm nơi thờ tự tiên tổ, nơi ăn ở và làm việc của nhà Trịnh trong công cuộc “Phù Lê diệt Mạc”.
Tháng chạp năm 1592, nhà Mạc cơ bản bị diệt, cuộc nội chiến Nam Bắc triều chấm dứt. Tháng 4-1593 chúa Trịnh Tùng rước vua Lê từ Thanh Hóa trẩy ra Thăng Long ngự ở chính điện. Năm 1599 chúa Trịnh Tùng lập ra Phủ Chúa ở Thăng Long làm nơi ở và làm việc của chúa Trịnh. Lúc bấy giờ ở Biện Thượng và Thăng Long vẫn có sự giao lưu thường xuyên. Không một đời chúa nào mà không có một lần về bái yết tôn lăng hoặc lưu lại Biện Thượng trong khi đi tuần tra kinh lý trấn Thanh Hoa. Không một quan đại thần nào mà không có một lần về chiêm ngưỡng quê hương đất tổ nhà Trịnh. Chính những sự đi lại tấp nập ấy mà người xưa có câu “Ngựa xe về Bồng Báo”.
Trải qua các cuộc binh đao và thời gian mưa nắng, phủ nhà Trịnh ở Biện Thượng chỉ còn lại một ngôi nhà cổ 7 gian, xây gạch vồ, lợp ngói mũi, làm toàn bằng gỗ lim, cột to. Năm 1995, ngôi nhà Phủ Trịnh được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia. Năm 2015, tỉnh Thanh Hóa đã phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình bảo tồn, tu bổ, tôn tạo khu Phủ Trịnh nhằm mục đích phát huy giá trị di tích, góp phần tôn vinh công lao to lớn của các chúa Trịnh trong sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Từ đó công việc xây dựng khu di tích, tu bổ, tôn tạo Phủ Trịnh đã và đang được tiến hành.
Năm 2019 tỉnh Thanh Hóa có Quyết định phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng khu di tích Phủ Trịnh, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa với mục tiêu xây dựng Khu di tích Phủ Trịnh thành điểm đến của du lịch Thanh Hóa nói riêng và Việt Nam nói chung, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương. Quyết định nêu rõ tính chất, chức năng Khu Di tích lịch sử Quốc gia Phủ Trịnh gắn liền với điểm tham quan, du lịch quan trọng của tỉnh Thanh Hóa.
Quy mô quy hoạch khu di tích Phủ Trịnh có tổng diện tích là 16,36 ha. Về khu tôn tạo phát huy giá trị di tích có khu Phủ từ gồm các hạng mục: Nhà tiền điện, nhà hậu điện, cổng, nhà tả mạc, sân, vườn, cảnh quan… Khu trưng bày. Vườn thượng uyển gồm có: Lầu ngắm cảnh, khu trưng bày thơ trên đá, hồ nước, các loại cây hoa, cây cảnh. Khu lễ hội có các hạng mục: Nhà bia, cổng Nam, cổng Tây, lầu ngâm thơ trên hồ nước, sân vườn, cảnh quan… Khu cảnh quan phía ngoài đê có khu cây xanh, có bến thuyền sông Mã và đường giao thông để khách đi bằng đường thủy về thăm Phủ Trịnh.
Du khách về thăm khu di tích Phủ Trịnh xin mời đến thăm một số di tích lịch sử, liên quan đến nhà Trịnh được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia đó là: Nghè Vẹt, nhà thờ họ Hoàng Đình (làng Bồng Thượng), Mộ tổ 5 đời của Thái Vương Trịnh Kiểm, Lăng mộ Thành tổ Triết Vương Trịnh Tùng (làng Sóc Sơn)…
Nghè Vẹt là một công trình kiến trúc quy mô và thẩm mỹ. Nghè có nhà tiền đường 11 gian, nhà trung đường 11 gian và hậu cung. Nhà làm bằng gỗ lim, cột to, mái lợp ngói mũi. Dãy cột cái phía sau nhà tiền đường, mỗi cây cột đặt một chim vẹt gỗ và một tượng phỗng gỗ (quan hầu) tất cả đều chầu vào gian giữa. Ở hai cột quân phía sau nhà tiền đường có đặt đôi ngựa hồng cũng chầu vào gian giữa. (Đầu năm bảy mươi của thế kỷ XX, địa phương hạ giải 8 gian của dãy nhà trung đường, hiện còn 3 gian).
Nghè Vẹt là nơi thờ Thành hoàng làng Biện Thượng, Thần họ Trịnh, tên húy là Ra, người đất Thiên Vực lộ Vĩnh Ninh (nay là Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc). Vào thời gian vua Đường Ý Tông, niên hiệu Hàm Thông bên Bắc Quốc (Trung Quốc) vua xuất tự thiên hạ sai Cao Biền giữ chức Đô Hộ Sứ trấn giữ nước Nam Bang (năm 865). Khi Cao Biền đem quân đánh giặc, Trịnh Ra theo giúp được làm quản gia trở nên giàu có, ông biết thương người nghèo đói, đem của chu cấp cho nhân dân trong cả một huyện. Sau bị người ở xã Vinh Thanh hiềm thù giết rồi bỏ xác xuống sông. Cao Biền bèn làm lễ chôn cất. Từ đó về sau các dân ở ven sông Vĩnh Ninh (Vĩnh Lộc) và một số nơi khác lập đền thờ. Tỉnh Thanh Hóa có 72 nơi thờ, riêng huyện Vĩnh Lộc có 28 nơi thờ. Kỵ Thần vào ngày 14-11 âm lịch. Nghè Vẹt đã được trùng tu tôn tạo khang trang.
Nhà thờ họ Hoàng Đình cũng là nơi thờ Thái tể Vinh Quốc Công Hoàng Đình Ái - một danh tướng gắn liền với Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm, với Vương triều vua Lê - chúa Trịnh thời Lê Trung Hưng. Hoàng Đình Ái sinh năm 1527, quê ở Biện Thượng được trời đất chung đúc bởi khí thiêng sông núi, chí khí tang bồng, được hưởng nhân nghĩa của tổ tông. Từ nhỏ Hoàng Đình Ái đã theo nghiệp võ, lớn lên ông đầu quân giúp nhà Lê Trung Hưng và trở thành danh tướng tài ba lỗi lạc, là một công thần bậc nhất thời Lê Trung Hưng, làm quan trải 4 triều vua: Trung Tông, Anh Tông, Thế Tông, Kính Tông, một đời công thần ở ngôi vị tướng văn, tướng võ, công danh bao trùm thiên hạ, sự nghiệp rải khắp biên thùy.
Hoàng Đình Ái mất năm 1608, hưởng thọ 81 tuổi, triều đình truy tặng Bình Chương sự, Nhã Đô Mậu nghĩa công, ban tên thụy là Hậu Đức. Vua sai Đông các đại học sĩ Ngô Chí Hòa soạn văn bia để ghi công. Lời minh trong văn bia ghi: Non sông nước Nam/ Giữa trời nhật nguyệt/ Tướng công trung nghĩa/ Đứng giữa đất Việt/ Thư khoán nhà Hán/ Cờ quạt nhà Chu/ Huân nghiệp Tướng công/ Rạng danh muôn thuở/ Hòe quế đầy sân/ Lan chi đầy thềm/ Con cháu Tướng công/ Trăm đời hiển đạt.
Từ Bồng Thượng khách du lịch lên làng Sóc Sơn (cùng xã Vĩnh Hùng) thăm viếng mộ tổ 5 đời Thái Vương Trịnh Kiểm là Tuy Nhân Vương Trịnh Kỷ, cùng phu nhân họ Lê, húy là An Nhân. Khu mộ nằm ở núi Nanh Lợn thuộc khu vực Chổng Nun. Truyền lại đây là nơi đất quý được thầy địa lý mách bảo, Trịnh Liễu đưa hài cốt bố mẹ chôn cất tại đây, về sau đến đời Trịnh Kiểm đã làm nên vương nghiệp.
Ở làng Sóc Sơn còn có khu lăng mộ chúa Trịnh Tùng, con thứ của Trịnh Kiểm, nằm trên khu đất cao bên cạnh hón Thác (suối), quanh năm có nước chảy ra sông Mã. Trịnh Tùng có 53 năm nắm giữ binh quyền và phục triều 4 triều vua là: Anh Tông, Thế Tông, Kính Tông, Thần Tông, đất nước hai mặt Nam, Bắc đều yên ổn. Trịnh Tùng qua đời năm 1623 ở tuổi 74. Triều đình nhà Lê tôn phong miếu hiệu là Thành tổ Triết Vương.
Khu lăng mộ Trịnh Tùng được tu bổ, tôn tạo từ năm 2012 trên diện tích 11.000m2, công trình gồm có lăng mộ, nhà bia, cổng tứ trụ, hậu chẩm, tượng chầu, sân, hồ bán nguyệt, cây xanh… Đây là điểm đến của du khách khi về thăm quê hương chúa Trịnh.
Đất Báo Bồng còn là đất học hành, khoa bảng và tinh thần yêu nước, ý chí chống xâm lược. Trong thời kỳ phong kiến nơi đây có nhiều người đỗ đạt cao, đứng đầu là Trịnh Tuệ, người làng Biện Thượng đỗ Trạng nguyên vào năm 1736. Cũng ở làng Biện Thượng có Trịnh Khắc Tuy đỗ Tiến sĩ năm 1442, Lê Đăng Phụ đỗ Tiến sĩ năm 1685, Trịnh Kiên đỗ Tiến sĩ năm 1448… Ở làng Đông Biện có Đỗ Thiện Chính đỗ Hoàng giáp năm 1659, Tống Duy Tân đỗ Tiến sĩ năm 1875, Đỗ Thiện Kế đỗ Phó bảng năm 1875. Dưới triều Nguyễn làng Đông Biện có 27 người đỗ Cử nhân và có 40 người đỗ Tú tài (Cả huyện Vĩnh Lộc dưới triều Nguyễn có 42 người đỗ Cử nhân). Người đương thời ca ngợi, “Nghệ Đông Thành, Thanh Đông Biện”, nói về đất Đông Thành thuộc huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An và đất Đồng Biện tỉnh Thanh Hóa có nhiều người học hành, đỗ đạt cao.
Sau cách mạng tháng 8-1945, nước Việt Nam mới ra đời, người Bồng Báo vẫn phát huy truyền thống đất học, trẻ em lớn lên đều đi học, nhiều người có trình độ đại học, đến nay có 25 người có học vị Tiến sĩ, trong đó làng Bồng Trung có 15 Tiến sĩ. Năm 2019, em Hoàng Minh Trung làng Bồng Trung đạt huy chương bạc môn Sinh học và huy chương đồng môn Vật lý Olympic khu vực châu Á - Thái Bình Dương…
Người Bồng Báo có truyền thống yêu nước và chống xâm lược rất sớm. Theo Gia phả dòng họ Nguyễn (Ngõ Phủ), làng Bồng Trung, dòng họ có ông Nguyễn Công Duẫn và người con trai cả là Nguyễn Đức Trung đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đầu thế kỷ XV, lập được nhiều chiến công. Nguyễn Công Duẫn được phong là Hạnh Châu Đô Đốc Kiêm sứ Thái bảo Hoàng Quốc Công, tăng Thái sư Hưng Quốc Công. Người đương thời tôn ông là “Hổ đầu tướng quân”, ông đã từng trấn giữ sách Lê Hoa (Lào Cai) chống nhau với tướng nhà Minh là Mộc Thạch.
Con trai Nguyễn Đức Trung làm quan từ đời Lê Thái Tổ. Khi Nghi Dân tiếm vị, ông đang làm Điện Tiền sứ ty đô chỉ huy. Ông là một trong số đại thần đề xướng bắt Nghi Dân. Khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi, vua tổ chức bình công, ông được xếp vào bậc Đại thần xướng nghĩa và được phong là Thái úy Trình Quốc Công. Ông có con gái thứ hai là Nguyễn Thị Ngọc Hằng vào cung làm sùng nghi ở cung vua Vĩnh Ninh, bà sinh Hoàng tử Tranh, sau là vua Lê Hiến Tông.
Trong phong trào chống Pháp cuối thế kỷ XIX, làng Đông Biện có Lê Văn Điếm một dũng tướng không sợ hy sinh, quyết chiến đấu với giặc Pháp đến hơi thở cuối cùng và Tiến sĩ Tống Duy Tân lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh chống thực dân Pháp (1886-1892).
Lê Văn Điếm sinh năm 1850, là người có sức khỏe khác thường, lớn lên ông đi lính và được tuyển vào trường võ bị trong quân đội nhà Nguyễn để luyện tập các môn võ nghệ và chiến thuật. Sau thời gian học tập, ông tỏ ra là một võ sinh xuất sắc được tuyển đi thi võ. Kết quả ông đã đậu Phó bảng võ (kém Tiến sĩ một bậc). Sau khi trúng tuyển ông được phục vụ dưới quyền của Ông Ích Khiêm một vị quan lớn của triều đình Nguyễn. Sau đó ông được giữ chức Đề đốc hộ thành Nam Định (chỉ huy quân đội trong một tỉnh). Năm 1883, quân Pháp mở rộng xâm lược xứ Bắc Kỳ lần thứ 2. Sau khi đánh chiếm thành Hà Nội, chúng kéo quân đánh chiếm thành Nam Định. Về tương quan lực lượng, quân Pháp mạnh hơn ta rất nhiều. Về phía ta quân số đã ít, vũ khí lại thô sơ. Trước tình hình đó Tổng đốc tỉnh Nam Định Vũ Trọng Bình rất hoảng hốt phải bỏ chạy, Án sát Hồ Bá Ơn bị thương. Quân Pháp tấn công mạnh, nhưng Đô đốc Lê Văn Điếm vẫn kiên cường đốc quân chống trả quyết liệt. Quân địch càng tăng cường hỏa lực. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Lê Văn Điếm và binh sĩ vẫn kiên cường chống trả đến phút chót. Cuối cùng ông bị đạn bắn thủng ruột rồi hy sinh vào ngày 27 tháng 3 năm 1883 (19 tháng 2 năm Quý Mùi).
Sau khi Lê Văn Điếm qua đời, nhân dân rất lấy làm thương tiếc, triều đình nhà Nguyễn đã truy phong tước cho ông và bố mẹ ông.
Khu lăng mộ Đề đốc Lê Văn Điếm hiện nằm cạnh quốc lộ 217, thuộc địa phận làng Bồng Trung (xã Minh Tân). Lăng mộ được tôn tạo năm 2010 bằng vật liệu đá xanh, kiến trúc theo kiểu lăng mộ của các quận công trước đây. Tổng diện tích lăng mộ là 300m2, riêng phần khuôn viên lăng mộ là 150m2. Khu lăng mộ có giá trị về lịch sử, về nghệ thuật điêu khắc và mỹ thuật đương đại được thể hiện ở các mảng đề tài trang trí khá phong phú như: Chạm hình chim phượng, hoa lá cách điệu, hoa văn sóng nước, tùng, trúc, cúc, mai…
Tống Duy Tân sinh năm 1838. Ông thi đỗ Cử nhân năm 1870, sau đó năm 1875 ông đỗ Tiến sĩ được bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc). Về sau ông được thăng lên chức Thừa biện Bộ Hình. Ông là một vị quan nghiêm minh, xét xử công bằng, được nhân dân trong vùng mến phục.
Do không đồng tình với thái độ của triều đình Nguyễn với thực dân Pháp, Tống Duy Tân cáo quan về quê dạy học, mượn cớ về để cư tang mẹ mới tạ thế. Tại quê nhà, ông vừa dạy học, vừa bí mật chuẩn bị lực lượng chống thực dân Pháp. Khi Tôn Thất Thuyết còn làm Tổng đốc Thanh Hóa, nể lời mời, Tống Duy Tân nhận chức Đốc học Thanh Hóa, sau làm Thương biện Tỉnh vụ, rồi làm Chánh sứ Sơn phòng.
Năm 1885 hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, Tống Duy Tân đã kịp thời vận động nhân dân xây dựng lực lượng, “sức đi các phủ, huyện lấy hương binh ra đầu quân” làm cuộc khởi nghĩa chống Pháp mang tên Hùng Lĩnh (Hùng Lĩnh là một dãy núi ở làng Bồng Thượng, dân làng gọi là núi Báo). Tại quê nhà được nhân dân đồng tình ủng hộ, trong đó có một số người ở quê tham gia trong Bộ chỉ huy cuộc khởi nghĩa như Nguyễn Sự Chí (làng Bồng Trung), Lê Văn Dơi (làng Bồng Thượng) Trịnh Văn Khôi (làng Bản Thủy quê vợ Tống Duy Tân). Nghĩa quân dựa vào dãy núi Mông Cù, làng Đa Bút làm chiến khu. Sau này Tống Duy Tân đã tổ chức xây dựng căn cứ Bồng Trung - Đa Bút để đánh trả các cuộc tấn công của quân Pháp. Cứ điểm Bồng Trung - Đa Bút trở thành một trong những trung tâm của phong trào khởi nghĩa của nhân dân Thanh Hóa. Thực dân Pháp đã tức tốc mang quân tới đánh phá hòng tiêu diệt nghĩa quân.
Trong hai trận đánh liên tiếp, ngày 8 tháng 11 và ngày 22 tháng 12 năm 1885, khi quân Pháp từ tỉnh lỵ Thanh Hóa đi bằng xuồng máy ngược dòng sông Mã lên đánh phá chiến khu đã bị nghĩa quân tiêu diệt và làm bị thương nhiều quân Pháp. Đến đầu năm 1886 nghĩa quân Hùng Lĩnh trên bước đường trưởng thành đã phối hợp chiến đấu với nhiều đội nghĩa quân khác trong tỉnh. Nhưng từ sau khi cứ điểm Ba Đình bị triệt hạ (01-1887), phong trào Thanh Hóa đang đứng trước những khó khăn lớn. Sau những cuộc đàn áp đẫm máu của địch, lực lượng nghĩa quân bị suy giảm, một số lãnh tụ hy sinh trong chiến đấu hay bị sa vào tay giặc. Trong tình thế đó, Tống Duy Tân không thể duy trì toán quân nhỏ của mình để đương đầu với địch, mà phải tìm mọi cách tăng cường lực lượng, chắp nối với các phong trào ở hai miền Trung, Bắc. Nhằm mục đích ấy, nghĩa quân Hùng Lĩnh tạm phân tán, còn Tống Duy Tân tìm đường ra Bắc vận động văn thân và nhân dân ủng hộ phong trào đấu tranh của Thanh Hóa.
Bước vào các năm (1889-1890), nghĩa quân Hùng Lĩnh được phục hồi và phát triển. Dưới sự chỉ huy của Tống Duy Tân và Cao Bá Điển, nghĩa quân Hùng Lĩnh đã lập được nhiều chiến công trong các trận đánh ở Vân Đồn, núi Mưng (Nông Cống), Yên Lãng (Thọ Xuân)… Nhưng suốt trong hai năm 1891-1892, nghĩa quân Hùng Lĩnh phải chiến đấu lưu động trên một địa bàn rộng lớn từ các huyện miền xuôi lên các huyện miền núi Thanh Hóa, trong tình thế bị địch bao vây o ép ráo riết, lực lượng chiến đấu bị giảm sút, vũ khí và binh lương ngày càng hao hụt, Tống Duy Tân và Cao Bá Điển bàn với các tướng lĩnh tạm thời phân tán về các địa phương, vũ khí, binh lương phần lớn chuyển giao cho Cầm Bá Thước, Tống Duy Tân dẫn một toán quân nhỏ về ẩn ở hang Dong thuộc huyện Bá Thước, sau đó lại tìm cách gây dựng lại phong trào. Nhưng Pháp đã đem quân vây bắt được Tống Duy Tân và kết án tử hình ông vào ngày 5 tháng 10 năm 1892 tại Thanh Hóa. Tấm lòng yêu nước cao cả và cái chết vẻ vang vì nước, vì nhân dân của Tống Duy Tân sống mãi với quê hương, đất nước. Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) khi đang hoạt động ở nước Pháp đánh giá: “Tống Duy Tân là một nhà đại trí thức, đấu tranh dũng cảm chống bọn xâm lược Pháp” và Người khẳng định: “Tôi tôn kính tất cả những Tống Duy Tân… cái chết của họ làm cho Tổ quốc họ sống lại, lòng can đảm của họ bất diệt”.
Lăng mộ Tống Duy Tân hiện đang nằm trong khuôn viên trường học mang tên ông, đó là Trường THPT Tống Duy Tân đặt ở làng Bồng Trung.
Truyền thống yêu nước của nhân dân Bồng Báo được phát huy. Trong 30 năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở thế kỷ XX (1945 - 1975) nhân dân cả 3 xã miền Bồng Báo đều có thành tích xuất sắc về đóng góp sức người, sức của cho các cuộc kháng chiến của nhân dân ta giành thắng lợi. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã Vĩnh Minh và xã Vĩnh Tân đều được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất về thành tích tòng quân chi viện; xã Vĩnh Hùng được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì về thành tích tòng quân chi viện.
Ở các xã miền Bồng Báo còn nhiều di tích lịch sử được xếp hạng, đang được gìn giữ và phát huy giá trị là điểm đến tham quan của khách du lịch đó là Nhóm tượng đá Lăng Bà Chúa (Đa Bút), chùa Đa Bút, chùa Bền, Nghè Cung, đình Bồng Trung, đình Bồng Hạ, đình Bông Thôn, đình làng Vực, từ đường họ Trịnh Tất Đạt, từ đường họ Đỗ, từ Đường họ Mai, từ Đường họ Nguyễn Ngõ Phủ, từ đường họ Nguyễn Bá Thân (xã Minh Tân), chùa và phủ Báo, từ đường họ Lê Văn (Ngõ Thẳng), từ đường họ Lê Đình, từ đường họ Hoàng Đình Phùng (Xã Vĩnh Hùng).
Ngoài ra ở phụ cận miền Báo Bồng có những di tích lịch sử, danh thắng Quốc gia là những điểm du lịch hấp dẫn đó là: Bia ký và đền thờ Trịnh Khả (làng Giang Đông, xã Vĩnh Hòa), chùa cổ Hoa Long, đền thờ Thượng tướng quân Trần Khát Chân (xã Vĩnh Thịnh), danh thắng Kim Sơn và chùa Linh Ứng (xã Vĩnh An)...
Các làng xã ở Báo Bồng từ xưa có nhiều phong tục, tập quán và các lễ hội được cả làng tham gia đó là: Lễ Thượng Nguyên (rằm tháng giêng), lễ Kỳ Phúc (lễ cầu phúc), ngày kỵ Thần (Thành hoàng làng). Ở làng Bồng Thượng có lệ rước bóng (rước kiệu Mẫu Liễu Hạnh vãn cảnh ngày xuân) vào ngày 28 tháng 2 âm lịch ở Phủ Báo thu hút dông đảo người dân trong vùng tham gia. Câu ca về lệ rước bóng còn truyền mãi đến hôm nay: Lệ làng hai tám tháng hai/ Lệ làng rước bóng gái trai phải lòng/ Mưa xuân cho cỏ rậm đồng/ Cho trai với gái phải lòng thương nhau. Hiện nay miền Báo Bồng có thêm lễ hội phủ Trịnh và giỗ Đức Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm vào ngày 18 tháng 2 âm lịch tại làng Bồng Thượng. Đây là lễ hội cấp tỉnh nên đông đảo khách thập phương và con cháu dòng họ Trịnh cả nước về tham dự.
Về sản vật ở miền Bồng Báo có rất nhiều. Theo sách “Thanh Hóa tỉnh Vĩnh lộc huyện chí” của Cử nhân Lưu Công Đạo người Châu Hoan (Nghệ An) biên soạn năm Bính Tý, đời vua Gia Long thứ 15 (1816) khi ông giữ chức Huyện Doãn (Tri huyện) huyện Vĩnh lộc cho biết ở Biện Thượng (vùng Bồng Báo) có nhiều sản vật quý như long cốt, nhân sâm, con trai, con ốc, khoai lang Đa Bút… Nhân sâm tức loài sâm củ hao hao hình người, là sản vật quý hiếm, mọc ở núi Hùng Lĩnh, dân làng gọi là núi Báo do đó nhân sâm ở đây gọi tắt là sâm Báo. Lưu Công Đạo đã viết về nhân sâm như sau: “Nhân sâm là sản vật hiếm ở các núi Biện Thượng, Hùng Lĩnh, tục gọi là sâm Báo, mùi vị ngọt, hơi chua, tính hơi hàn. Tẩm nước gừng đem đồ với gạo nếp, xắt thành từng miếng nhỏ, thời tiết càng nóng uống càng tốt. Nước Nam có nhiều sâm, chỉ có sâm ở Biện Thượng công hiệu hơn hẳn các nơi khác”. Dùng nhân sâm có nhiều hiệu nghiệm kỳ lạ (Nguyễn Văn Hải dịch - NXB Thanh Hóa xuất bản năm 2010). Ngày 09 tháng 12 năm 2019, rượu sâm Báo xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc đã được Hội đồng thẩm định tỉnh Thanh Hóa xếp hạng là sản phẩm OCOP cấp tỉnh năm 2019.
Miền Báo Bồng đang là điểm đến của nhiều du khách trong tỉnh và trong nước.
L.K.T