Bầy chìa vôi - Một bài học nhân văn sâu sắc
Bầy chìa vôi là truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Thiều được in trong sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1, năm 2022, bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống.
Bối cảnh câu chuyện ở một làng quê ven sông Đáy, gần hai giờ sáng, hai anh em Mên và Mon tỉnh dậy lo lắng cho đàn chìa vôi con còn nhỏ ở giữa bãi sông: “Hai anh em trò chuyện lo lắng cho bầy chim non… Hai đứa bé nằm trong chiếc chăn dạ đã rách nhiều chỗ thì thầm nói chuyện. Bên ngoài mưa…”. Trời càng gần sáng hai anh em càng lo lắng hơn khi có người đi đường nói chuyện, “Mưa càng to và gió càng mạnh. Cánh cửa liếp bị gió thổi đập cành cạch. Có tiếng người đi qua đầu ngõ nhà hai đứa bé gọi nhau... Năm nay nước sông to phải biết…”. Chính cuộc trò chuyện ấy, dẫn tới quyết định cứu bầy chim của Mên.
Bất ngờ là mùa mưa năm nay đến sớm hơn, hai anh em trong đêm mưa bão đã trốn bố mẹ ra dải cát nổi giữa sông để cứu lũ chìa vôi. Chúng lấy đò chèo ra bãi, nước dâng to... Là anh cả trong nhà, Mên tỏ ra là cậu bé hiểu chuyện, lo lắng và quan tâm tới em trong cuộc sống, từ việc giải đáp những câu hỏi liên tiếp của Mon đến việc dặn dò Mon giữ bí mật về bầy chìa vôi. Mên thể hiện được phần trưởng thành hơn trong mọi quyết định. Ngay từ cuộc trò chuyện đầu tiên giữa hai đứa trẻ, ta thấy được sự lo lắng của hai anh em. Ở phần ba, nhân vật Mên hiện rõ tính cách của người anh cả biết quan tâm, lo lắng cho em. Mên quan tâm và tỏ ra người lớn: “Một tia chớp phóng ra từ đâu đó và chạy lan trên trời như một cái rễ cây khổng lồ.
- Thế mà cũng nhìn - Thằng Mên bực tức - Cái bù nhìn đuổi chim chứ người đâu mà người.
- À đúng rồi”.
Rõ ràng Mên cũng sợ nhưng sự gan dạ, cùng với tình thương dành cho lũ chim đã khiến Mên như được tiếp thêm sức mạnh để thoát khỏi sự sợ hãi trước sấm sét. Trong cuộc phiêu lưu, Mên như một người thuyền trưởng, chỉ đạo em vượt bão táp, mặc dù đối mặt với sợ hãi, nguy hiểm. Mên ý thức được trách nhiệm của người anh cả, Mên đã không khóc bởi em biết nếu em khóc thì Mon cũng sẽ khóc và Mên đã cố gắng bình tĩnh cùng em trai vượt qua nguy hiểm: “Thằng Mên hổn hển. Nếu không có em nó ở đó chắc nó đã òa khóc. Nó tháo chiếc mũ lá của mình đội cho đứa em và nói:
- Phải thả cái mái chèo mà chèo, không đò trôi mất.
Hai đứa trẻ nắm tay nhau lảo đảo đi trên những tấm ván cập kênh trong lòng đò xuống phía mái chèo. Phải rất vất vả chúng mới hạ được cái mái chèo gỗ to và nặng xuống nước. Mái chèo gặp nước xiết trở nên nặng khủng khiếp. Hai đứa bé không sao quậy nổi mái chèo. Mưa vẫn rầm rập. Dòng sông dâng lên nghiêng ngả. Trôi đến đoạn sông cách bến đò làng hai đứa bé chừng gần hai cây số con đò mới dạt được vào bờ”.
Hai anh em khóc bởi xúc động, hai anh em đã mất cả đêm để lo lắng cho bầy chìa vôi, lo chúng sẽ bị dòng nước xoáy to nuốt chửng. Và chính chúng cũng không biết tại sao chúng khóc, bởi xúc động, bởi sự mong ngóng:
“Hình như chúng nghe thấy trong ngực mình nhịp đập của những trái tim chim hối hả nhưng đều đặn. Cuối cùng toàn thể bầy chim non đã thực hiện được tốt đẹp chuyến bay đầu tiên kỳ vĩ và quan trọng nhất trong đời. Những đôi cánh yếu ớt đã hạ xuống bên một lùm dứa dại bờ sông.
Hai anh em thằng Mên vẫn đứng không nhúc nhích. Trên gương mặt tái nhợt vì nước mưa của chúng hừng lên ánh ngày. Thằng Mên lặng lẽ quay lại nhìn em nó. Và cả hai đứa bé nhận ra chúng đã khóc từ lúc nào”.
Là em của Mên, Mon hồn nhiên và có phần ngây thơ hơn anh. Trong các cuộc trò chuyện, ta có thể thấy, với anh trai, Mon rất lễ phép. Mon cũng như Mên rất lương thiện, khi thương lũ chim ngoài bãi sợ đàn chim sẽ bị nước cuốn trôi. Mon là người em ngoan ngoãn, thức dậy và gọi anh, chia sẻ với anh mọi suy nghĩ. Mon nhắc Mên về lũ chim chìa vôi ngoài bãi. Mon hành động theo trái tim một đứa trẻ, chính điều ấy đã giúp cho ta cảm thấy được sự thánh thiện trong con người em. Như mọi đứa trẻ khác tò mò về tự nhiên, Mon cũng thế. Em lần lượt thắc mắc đặt các câu hỏi liên tiếp với người anh của mình. Chính em là người gợi mở dẫn bạn đọc tới với bầy chìa vôi khi em lần lượt hỏi Mên về chúng, về tập tính của chúng. Em chia sẻ với anh trai mọi chuyện, ta có thể tưởng tượng ra em hẳn sẽ là một cậu bé hiếu động với hàng vạn “câu hỏi vì sao”. Tất cả những thắc mắc của em đều xoay quanh bầy chìa vôi giữa sông.
Trong phần hai, chính Mon cũng đề nghị Mên đi cứu bầy chìa vôi: “Tổ chim ngập mất anh ạ. Mình phải mang chúng vào bờ, anh ạ”. Lời đề nghị của Mon đã khiến cho Mên quyết định đi cứu bầy chìa vôi. Mon mặc dù rất thương đàn chim nhưng em là một đứa trẻ nên vẫn sợ hãi sấm chớp và những thứ siêu nhiên do trí tưởng tượng của em.
Có lẽ, sự đồng hành và tin tưởng anh trai đã khiến Mon như được tiếp thêm động lực, em không còn run và sợ nữa. Hai đứa trẻ với suy nghĩ ngây thơ là cứu bầy chìa vôi đã trốn bố mẹ đội mưa, chèo đò ra sông. Hành trình ấy khiến cho ta đôi lúc lo lắng cho sự an toàn của lũ trẻ. Bởi dòng nước của sông Đáy vào mùa lũ cũng không hiền hòa như vẻ dịu dàng ngày thường của nó. “Mái chèo gặp nước xiết trở nên nặng khủng khiếp. Hai đứa bé không sao quậy nổi mái chèo. Mưa vẫn rầm rập. Dòng sông dâng lên nghiêng ngả”. Hai anh em mất sào đò là lúc bạn đọc nín thở theo hành trình nguy hiểm của hai anh em: “Hai đứa trẻ nắm tay nhau lảo đảo đi trên những tấm ván cập kênh trong lòng đò xuống phía mái chèo. Phải rất vất vả chúng mới hạ được cái mái chèo gỗ to và nặng xuống nước. Mái chèo gặp nước xiết trở nên nặng khủng khiếp. Hai đứa bé không sao quậy nổi mái chèo...”. Trong lúc nguy hiểm như vậy, Mon đã khóc, nhưng em không thừa nhận với anh, chỉ vì sợ anh lo lắng, sợ sẽ khiến anh khóc theo mình. Một chi tiết rất có ý nghĩa, cho thấy được tấm lòng của Mon dành cho anh trai mình, mặc dù là một đứa trẻ có phần ngây thơ nhưng em rất hiểu chuyện.
Chắc hẳn Mon đã rất sợ hãi, nhưng chính sự yêu thương và tấm lòng lương thiện của hai anh em đã giúp chúng vượt qua được sức mạnh của mưa bão:
“Trôi đến đoạn sông cách bến đò làng hai đứa bé chừng gần hai cây số con đò mới dạt được vào bờ.
- Vào bờ rồi anh ơi - Thằng Mon kêu lên sung sướng”.
Mon là đứa trẻ cảm xúc vui buồn rõ rang, sự sung sướng của em rất dễ hiểu. Hai anh em đã có một hành trình đáng nhớ, đã vượt qua bão tố. Hành trình ấy sẽ trở thành một kỉ niệm tuổi thơ của hai em, và đó cũng là bí mật nhỏ của cả hai. Vượt qua những nguy hiểm chúng vẫn là những đứa trẻ ngây thơ, vẫn lo lắng cho đàn chim, mặc dù chính mình vừa gặp phải nguy hiểm. Khi thấy đàn chim tung cánh bay trên bầu trời cả hai đều khóc bởi hạnh phúc, cả hai đã lo lắng, đã nguy hiểm, mong ước của hai em đã được thực hiện. Sau đó, anh Mên hỏi lí do khóc, sự phụng phịu, ngại ngùng của Mon làm em đáng yêu hơn bao giờ hết. Một chi tiết nhỏ nhưng ta thấy được sự tinh tế và am hiểu tâm lí trẻ thơ của tác giả.
Vẻ đẹp của tự nhiên đã đánh thức mọi giác quan, giúp trẻ cảm thụ và rung động trước cái đẹp, từ đó hình thành tư duy thẩm mỹ. Bãi sông quê trong buổi sớm mai hiện lên thật đẹp, là khung cảnh vừa quen thuộc vừa mới lạ với những đứa trẻ: “Khi ánh bình minh đã đủ sáng để soi rõ những hạt mưa trên mặt sông thì cũng là lúc dòng nước khổng lồ nuốt chửng phần còn lại của dải cát”.
Cảnh những cánh chim bay lên giữa mênh mông sông nước thật đẹp và xúc động. Khiến cho lũ trẻ không thể nói được bằng lời.
Và trước mắt hai đứa trẻ, một cảnh tượng như trong huyền thoại hiện ra. Từ mặt sông, những cánh chim bé bỏng và ướt át đột ngột bứt khỏi dòng nước mênh mông mà bay lên. Hai đứa bé không kêu lên được một tiếng nào. Người chúng như đang ngùn ngụt tỏa hơi nóng.
Tác giả so sánh và gọi đó là cảnh tượng trong huyền thoại. Bởi giữa dòng sông nước dữ dội đàn chim bé nhỏ lại vượt qua được để cất cánh bay lên… những đứa trẻ vốn hiếu động, lại im lặng ngắm nhìn đàn chim non tung cánh trên bầu trời. Đàn chim cũng như những đứa trẻ một mai sẽ cất cánh bay cao, bay xa trên nền trời của chúng.
Với bọn trẻ bầy chìa vôi là một bí mật nhỏ của chúng. Chúng yêu thương và bảo vệ bầy chìa vôi khỏi những nguy hiểm. Những đứa trẻ như Mon và Mên đã không quản mưa gió, gắng sức cứu những con chim nhỏ bé vì sợ chúng bị chết đuối khi lũ về... Những tấm lòng yêu mến và trân trọng thiên nhiên ấy đã phần nào giúp xoa dịu những tổn thương của môi trường do con người mang lại. Tuy nhỏ nhoi nhưng họ đã giữ gìn “màu xanh”, bảo vệ lấy những gì mong manh trước bao sự hủy hoại, tàn phá. Chúng ngây thơ và non nớt như chính bầy chìa vôi kia, cũng cần được bảo vệ và yêu thương.
Nguyễn Quang Thiều rất am hiểu tâm lí trẻ thơ, ông đã rất thành công xây dựng hình tượng hai nhân vật Mên và Mon: ngây thơ, yêu thiên nhiên, biết lắng nghe thế giới tự nhiên. Và có lẽ, chỉ những đứa trẻ hồn nhiên. ngây thơ mới đồng cảm và cảm nhận được linh hồn mà thế giới tự nhiên đem tới. Mỗi đứa trẻ đều cảm nhận thế giới theo một cách riêng. Nguyễn Quang Thiều đã mượn chính đôi mắt trong sáng của lũ trẻ để cảm nhận chính thế giới của chúng.
Với nghệ thuật tạo tình huống truyện đặc sắc và miêu tả tính cách nhân vật hợp lí, chi tiết, tác giả cho ta thấy tấm lòng của Mên và Mon đối với bầy chim chìa vôi. Đây cũng là những trải nghiệm tuổi thơ của hai anh em Mên và Mon, khi đi cứu bầy chim chìa vôi ở giữa dòng sông. Qua đó, người đọc cũng thấy được sự hồn nhiên. ngây thơ rất đáng yêu của hai anh em Mên và Mon trong truyện ngắn này.
Truyện được kể theo ngôi thứ ba, người kể giấu mình và gọi tên các nhân vật theo tên của chúng. Khi dùng ngôi kể thứ ba giúp người kể có thể kể một cách linh hoạt, tự do. Từ đó giúp ta dễ hình dung ra bối cảnh làng quê và tâm hồn của những đứa trẻ.
Truyện ngắn Bầy chìa vôi của Nguyễn Quang Thiều là câu chuyện về tâm hồn, kỉ niệm trẻ thơ, tình cảm anh em của hai cậu bé Mên và Mon tại một làng quê bên bờ con sông Đáy, nơi bầy chìa vôi làm tổ ở bãi bồi giữa sông. Truyện ngắn Bầy chìa vôi giàu chất thơ đằm thắm, chi tiết độc đáo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản sắc dân tộc đậm đà cùng chiều sâu của vẻ đẹp nhân văn và chất triết lí nhẹ nhàng, sâu sắc.
LÊ XUÂN SOAN