Tạp chí văn nghệ Xứ Thanh
Trang chủ   /   Tiến tới Đại Hội VHNT Thanh Hóa lần thứ IX   /   Có một tượng đài thơ (Đọc một số bài thơ viết về thương binh, liệt sỹ) - Nguyễn Ngọc Phú
Có một tượng đài thơ (Đọc một số bài thơ viết về thương binh, liệt sỹ) - Nguyễn Ngọc Phú

Đọc lại những bài thơ viết về đề tài Thương binh - Liệt sỹ, tôi rất ngạc nhiên khi bắt gặp những tứ thơ gần giống nhau trong hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ nhưng triển khai theo một cách riêng mang dấu ấn của thời đại, của tâm hồn người Việt trong những hoàn cảnh khác nhau. Ví như bài Viếng bạn của Hoàng Lộc và Mồ anh hoa nở của nhà thơ Thanh Hải. Cả hai bài thơ đều viết theo thể thơ 5 chữ với lối tự sự, trữ tình. Cũng là nỗi đau nghẹn thắt, nghẹn ngào trước sự hy sinh của đồng đội nhưng Viếng bạn là tác giả được chôn cất người đã mất: Hôm nay đã chặt cành/ Đắp cho người dưới mộ, còn ở Mồ anh hoa nở thì: Hôm qua chúng giết anh/ Xác phơi đầu ngõ xóm và: Mắt trừng còn dọa dẫm/ Thằng này là cộng sản/ Không được đứa nào chôn.
Nhưng khi chúng quay đi thì bà con làng xóm đã đưa anh về yên nghỉ trên đồi cao bất chấp cả lời đe dọa lũ giặc. Và trên nấm mộ của người chiến sỹ đó luôn được đắp lên những bó hoa hồng:
Hoa hồng nở và nở
Hương thơm bay và bay

Bài thơ của Hoàng Lộc viết trong thời kỳ chống Pháp mộc mạc mà không đơn sơ, lời thơ như chạm khắc ký thác. Còn nhà thơ Thanh Hải viết trong thời kỳ chống Mỹ đã nâng tứ thơ lên trở thành biểu tượng như là một tượng đài có vẻ đẹp bất tử. Và gần đây nhất tôi lại được đọc bài thơ Mộ gió của nhà thơ Trịnh Công Lộc viết về sự hy sinh của những người chiến binh giữ biển đảo không về. Không về cả về thể xác và chỉ có cuộc chiến đấu trên biển mới có những ngôi mộ gió - Ngôi mộ mà dưới đó hình  nhân được làm bằng đất sét: Mộ gió đây đất thành xương cốt/ Cứ gọi lên là rõ hình hài và: Chạm vào gió như chạm vào da thịt/ Chạm vào nhói buốt Hoàng Sa.
Có những ngôi mộ gió trên biển đảo khơi xa thì lại có hàng ngàn ngôi mộ vô danh trên dãy Trường Sơn trong bài thơ Khát vọng Trường Sơn của nhà thơ quân đội Nguyễn Hữu Qúy. Với lối cấu trúc điệp chữ và điệp ý như những điểm nhấn là cả một dư ba vang vọng và day dứt, thiết tha và ngưng đọng: Mười nghìn tiếng chuông ngân trong im lặng/ Mười nghìn trái tim neo ở đầu nguồn.
Có thể nói bài thơ như chạm khắc một tượng đài trùng điệp trải dài ngút ngàn nhưng không vô vọng với:
Mười ngàn đồng đội nằm rải Trường Sơn
Mười ngàn hài cốt chưa về khói hương
Mười ngàn khát vọng cùng về bên nhau
Các anh khi ngã xuống vẫn ở trong tư thế
Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh vẫn đứng lên tựa vào xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Một hình tượng thật đẹp, một vẻ đẹp bi tráng hào hùng của người chiến sĩ trong thời đại Hồ Chí Minh tỏa ra không chỉ là hào quang chiến thắng mà còn là hào quang của vẻ đẹp lý tưởng. Nhà thơ Lê Anh Xuân, tác giả của  bài thơ nổi tiếng này sau đó cũng đã hy sinh trong một tư thế tiến công như thế. Chính ngọn súng cũng là ngọn bút và máu các anh cũng là mực của những dòng viết này...
Trong các bài thơ viết về thương binh liệt sỹ những bài hay và thành công nhất có sức lan tỏa rộng nhất, dễ thuộc nhất là những bài có cốt truyện như Núi đôi của Vũ Cao trong kháng chiến chống Pháp và Quê hương của Giang Nam trong kháng chiến chống Mỹ. Cả hai đều  kể về câu chuyện tình yêu thật cảm động với một cô gái cụ thể và sự hy sinh trong những hoàn cảnh cụ thể. Với Vũ Cao thì:
Mới đến đầu thôn, tin sét đánh
Giặc giết em rồi dưới góc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành chết thủy chung

Thì ở Giang Nam:
Giặc giết em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau đớn lòng anh chết nửa con người

Giọng thơ Vũ Cao điềm tĩnh, đau đớn tột cùng nghẹn nuốt vào trong, thì Giang Nam là tiếng kêu xé ruột nghẹn thắt. Có một tượng đài bất tử được dựng lên từ sự hy sinh của hai cô gái đó. Một tượng đài thơ và chỉ có thơ mới lưu dấu mãi trong tâm hồn. Đó là: Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn  mùa xanh ngát cánh hoa thơm (Núi đôi), và: Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi (Quê hương).
Có một Núi đôi sừng sững thành địa danh chung trong lòng mỗi người thật ấn tượng thì lại có một Quê hương thật thấm đẫm, trong sự hy sinh hóa thân vào mỗi cành cây ngọn cỏ cội nguồn đất đai sông núi. Không phải ngẫu nhiên mà có những cặp bài thơ như một cặp bài trùng nổi tiếng của hai thời kỳ kháng chiến.  
Có hai bài thơ dài khá thành công của hai nhà thơ nổi tiếng sau này viết khi họ còn là những người lính trực tiếp cầm súng đánh giặc. Và viết về  chính sự hy sinh của những người thân của mình đó là bài Phan Thiết có anh tôi của nhà thơ Hữu Thỉnh và Nấm mồ và cây trầm của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Người anh trai của Hữu Thỉnh hy sinh ở Phan Thiết khi cùng mọi người đi lấy nước cho đồng đội:
Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ
Mặt anh còn cách nước một vài gang

Cái khoảng cách giữa lấy nước (cho sự sống) và cái chết thật mỏng manh:
Vài bước nữa
Thế mà không thể khác
Biển màu gì thăm thẳm lúc anh đi

Còn người bạn thân đồng đội tên là Hùng của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu thì:
Nhận cái chết cho đồng đội sống 
Ngực chặn lỗ châu mai Hùng đứng thẳng 
Lửa bén vào áo lính tuổi hai mươi

Cứ ngỡ đây cả hai thi sĩ không làm thơ nữa mà họ chỉ ghi lại, gọi lên những phút giây oanh liệt ấy, những thời khắc lịch sử ấy. Để rồi thăng hoa một chiêm nghiệm sự sống hồi sinh từ cái chết hữu hình. Với Hữu Thỉnh người anh trai vẫn sống trong ký ức của nhà thơ:
Không nằm trong nghĩa trang 
Anh ở với đời anh xanh vào cỏ 
Cỏ ở đây thành nhang khói nhà mình 
Đồi ở đây cũng là con của mẹ
Thì ở Nguyễn Đức Mậu có một biểu tượng: 
Đất đắp mộ Hùng bom trộn lẫn
Cây trầm cháy dở thay nén nhang

Và:
Cây trầm đẹp như cuộc đời chiến sĩ
Sống tươi tốt bao niềm tin bình dị
Thân hy sinh thơm đất, thơm trời

Đó cũng chính là tượng đài bất tử sống mãi với thời gian, sống mãi trong ký ức, sống mãi như là một sự trường tồn trong văn học. 
 Thơ viết về thương binh, những người “Tàn mà không phế”, những người không chỉ mất một phần máu thịt mà còn mang trong mình những cơn sốt sét rừng âm ỉ những di chứng của chất độc da cam. Tôi thật ấn tượng khi chọn hai bài thơ viết về những người thương binh cụt chân bắt đầu từ giai điệu thiết tha Vết chân tròn trên cát của nhạc sỹ Trần Tiến. Đôi chân đối với mỗi con người thật quan trọng, vì luôn phải hoạt động trong môi trường cuộc sống xã hội thường ngày. Đôi bàn chân đã mất đó từng cùng họ hành quân qua bao chiến trường khói lửa. Tướng quân Huỳnh Văn Nghệ là một thi sĩ, trong thời kỳ chống Pháp đã viết bài thơ Tiếng hát giữa rừng kể về một chiến sĩ bị thương phải cưa chân bằng cưa thợ mộc không thuốc gây mê. Để quên đi nỗi đau đớn tột cùng đó anh đã hát vang bài Quốc ca với một sự chịu đựng phi thường đáng khâm phục:
Cưa cứ cưa, xương cứ đất
Máu cứ rơi trong từng vết đỏ bông
Hai bàn tay xiết chặt đôi hông
Dồn hết phổi vào trong câu hát
Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc
Đã hát hát đi hát lại bao nhiều lần
Vẫn chưa  đứt xương chân
Vẫn chưa ngừng máu đỏ

Và trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ, nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa đã viết bài thơ Bàn chân thầy giáo:
Bàn chân thầy gửi lại Khe Sanh
Hay  Tây Ninh, Đồng Tháp 
Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc 
 Cho lẽ sống làm người

Người thầy giáo thương binh trở về giảng đường với những trang sách  và các em thơ với đôi nạng gỗ xếp bên bàn. Chính cái đôi nạng gỗ ấy đã  vỡ vạc ra bao điều, đã gieo vào tâm hồn các em những ý nghĩ sâu sắc có sức thuyết phục hơn cả những bài học luân lý mà ở lứa tuổi học trò Trần Đăng Khoa đã nhận ra: 
Dấu nạng hai bên như hai hàng lỗ đáo 
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo 
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo  
Của cả cuộc đời mình

 Lại có những “vết thương lòng” chia cắt không chỉ là thể xác mà cả tâm hồn, sự trống vắng cô đơn, sự thiếu hụt tình cảm của bao cô thanh niên xung phong trở về quá tuổi và vào chùa thành sư nữ. Nhà thơ Pham Tiến Duật trong trường ca Tiếng bom và tiếng chuông chùa viết thật xúc động về người nữ thương binh từng bị những mảnh bom xuyên vào đầu đau nhức những khi trái gió trở trời: 
Sao sư thầy không gõ mõ 
Lại vừa tụng kinh vừa gõ đầu mình 
Có thể nào những giây phút thời bình 
Còn có thể làm vết thương thưở nào tái phát

Chiến tranh đã đi qua nhưng khi trở lại dòng sông Thạch Hãn, người cựu chiến binh Lê Bá Dương đã nức nở, thổn thức:
Đò lên Thạch Hãn xin... chèo nhẹ 
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm 
Có tuổi hai mươi thành sóng nước 
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm

 Cũng như năm xưa trong kháng chiến chống Pháp nhà  thơ - Người lính tây tiến Quang Dũng đã từng độc hành khúc tráng ca lẫm liệt bi thiết:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ 
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh 
Áo bào thay chiếu anh về đất 
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

 Vâng, máu xương của các anh hùng liệt sĩ đã hóa thân vào mỗi ngọn núi dòng sông đất nước, đã hóa thân vào mỗi trang thơ, trang văn cho các thế hệ mai sau. Đó chính là tượng đài được dựng nên bất tử trong trái tim mỗi người...
                               N.N.P


Các tin liên quan

Thống kê truy cập
 Đang online: 124
 Hôm nay: 8662
 Tổng số truy cập: 7472355
Cửa sổ văn hóa

  • TẠP CHÍ VĂN NGHỆ XỨ THANH
  • Địa chỉ: Tầng 9, trụ sở hợp khối các đơn vị sự nghiệp tỉnh, đường Lý Nam Đế, Phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa - Điện thoại: 0237.3859.400
  • Chịu trách nhiệm nội dung: Thy Lan
  • Website: tapchixuthanh.vn - Email: tapchixuthanh@gmail.com
  • Giấy phép số 187/GP-TTĐT do Cục Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử cấp ngày 26/10/2023
  • Đơn vị xây dựng: Trung tâm CNTT&TT Thanh Hóa